Tìm kiếm
Trang chủ
Về tác giả Trần Nhương
Thơ
Truyện
Tản văn
Văn học nước ngoài
Tin văn và...
Bầu bạn góp cổ phần
Tôi có ý kiến
Viết về Trần Nhương
Cùng vui
Khúc kha khúc khích
Thư giãn video clip
Tư liệu nhà văn
Trần Nhương giới thiệu
Poems
Tài liệu tham khảo
Tranh Trần Nhương
Gallery
Liên kết website
nico-paris.com
vietnamnet
Hội Nhà văn Việt Nam
Văn nghệ Thái Nguyên
Hội Nhà văn HP
Chú Tễu
Dân Trí
Giáo dục Việt Nam
Tiền Phong
Dân Việt
Tuổi trẻ
Thanh niên
Thế giới mới
vnexpress
Lão Khoa
Đông y Trần Ngọc Chấn
Trí thức trẻ
VTC news
Soha
Hội VHNT tại Nga
Văn chương Việt
Mai Văn Phấn
Kim Dung-Kỳ Duyên
viet-studies
TC Văn hóa Nghệ An
Bô xít VN
Trần Kỳ Trung
lucbat.com
Văn nghệ quân đội
Bộ Tư pháp
Thế giới văn hóa
Văn đàn Nguyễn Nguyên Bảy
Lê thiếu Nhơn
Hoàng Tuấn Công
Đất Việt
Ảnh Thái Phiên
Tin nóng
Nhà thơ Văn Công Hùng
Vương Tri Nhàn
Tiin.vn
Hội Mỹ thuật VN
Nguyễn Duy Xuân
Tô Ngọc Thạch
Trần Nhương blog
Phụ nữ HCM
Văn đàn Việt
linh kiện laptop
GS Trần Đình Sử
Đời sông và pháp luật TPHCM
Cao Bồi Già
Nhà văn Triệu Xuân
Hội Mý thuật Hà Nội
Tôn vinh văn hóa đọc
BBC
Ca dao Tục ngữ
Tây Bụi
Vũ Thanh Hoa
Báo Văn nghệ Hội Nhà văn VN
Chúng ta
Cá Sấu Việt Nam
Báo Người cao tuổi
Hội Nhà văn TP HCM
Trần Nhương blog 2
saigon oc
Nhịp cầu Hoàng Sa
Văn học Sài Gòn
Chim Việt cành Nam
Song Hà (boygia)
Chu Mộng Long
Tạp chí nước Đức
Quán chiêu văn
Trần Xuân An
Văn hiến
Việt nam xưa
Trần Hoài Dương
Báo Tia Sáng
Thư viện Thơ
NGUYEN HUUVINH
Đặng Xuân Xuyến blog
Câu lạc bộ Văn chương
TC Người Hà Nội
TC Đáng Nhớ
Văn nghệ Trẻ
SOI
VIÊN NGÔN NGỮ VH PHƯƠNG ĐÔNG
Nhà văn Phạm Việt Long
NGƯỜI ĐÔ THỊ
THƠ VÀ ĐỜI
La Khắc Hoà
VIỆT SU KY
NGUYỄN QUANG LẬP
GIÁNG VÂN
Trang chủ
» Bầu bạn góp cổ phần
MÕ NGÀY XƯA KHÔNG ĐỨNG VỀ PHE CÁNH NÀO
Nguyễn Văn Sự & Nguyễn Xuân Diện
Thứ năm ngày 24 tháng 6 năm 2021 9:46 AM
Trong cộng đồng làng xã Việt Nam thời trước có một nhân vật đáng để ý song bấy lâu nay chưa được nghiên cứu nhiều – đó là nhân vật mõ làng. Bài viết này thử tìm hiểu về nhân vật mõ làng dưới một số khía cạnh, nhằm góp vào công cuộc nghiên cứu nông thôn Việt Nam trong lịch sử.
Về thời điểm xuất hiện: Hiện chưa tìm được tư liệu thành văn nào, có tính chất hành chính quốc gia, là lệnh chỉ của vua chúa cho các làng xã có mõ, qui định về chức phận và phạm vi hoạt động của mõ làng. Nhưng có hai tư liệu rất quan trọng giúp “xác định niên đại” của nhân vật này là: “
Hồng Đức quốc âm thi tập
” và vở chèo cổ
Quan Âm Thị Kính
. Trong
Hồng Đức quốc âm thi tập
(ở phần Phụ lục) có bài
Thằng Mõ
. Bài thơ này đã được các cụ Phan Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên khẳng định không phải là của Lê Thánh Tông, mà của người đời sau. Nhưng theo chúng tôi nếu không phải là của Lê Thánh Tông thì cũng là sáng tác của người thế kỷ XV chứ không thể sớm hoặc muộn hơn. Mẹ Đốp trong chèo cổ
Quan Âm Thị Kính
là một vợ mõ, và vở chèo này ra đời vào thế kỷ XV là điều đã được các nhà nghiên cứu khẳng định.
Hai tư liệu này cho phép khẳng định nhân vật mõ ra đời trước khi nó được đưa vào văn học rất lâu. Vì rằng, nhân vật mõ ở đây không còn là kết quả của phản ánh bình thường, mà nó đã trở thành một ấn tượng đã quá quen thuộc và đáng ca ngợi (đó cũng là cảm hứng chủ đạo của tác giả khi viết bài thơ, trong
Hồng Đức Quốc âm thi tập
). Và hơn thế, hình tượng thằng mõ còn được quần chúng lựa chọn để bộc lộ gửi gắm khát vọng tự do của mình (chèo cổ
Quan Âm Thị Kính
). Có thể nói nhân vật mõ gắn liền với cái đình làng.
Những đặc trưng của nghề mõ:
Trước hết mõ làng là người truyền tin
(mang thông tin, truyền thông) trong xã hội phong kiến; khi mà phương tiện thông tin đại chúng còn chưa phát triển. Khác với gia nô, tá điền – những người làm cho cá nhân một ông chủ hoặc vài ông chủ nhất định, mõ không phải là của riêng ai, mà là của cả làng, gánh trách nhiệm mà cả làng giao phó, ta tạm gọi họ là công xã nô. Mõ không phải là người canh tác thuê cho một gia đình như điền nô, không lĩnh ruộng cấy rồi nộp tô như tá điền cũng không phục vụ dịch vụ cho một gia đình như gia nô. Mõ là người lao động, nhưng lao động của mõ là lao động dịch vụ chứ không phải là lao động sản xuất. Và do vậy mõ không liên quan nhiều và trức tiếp tới vấn đề ruộng đất và công cụ lao động.
Phục vụ của mõ không phải chỉ là lý trưởng cùng các chức dịch trong làng xã, mà là cả cộng đồng làng xã
. Khi làng vào đám, cả gia đình mõ được huy động ra “việc làng”. Khi chia phần, dân làng chia cho mõ một cỗ riêng, nếu ăn không hết thì màng về…
Mõ đứng ngoài các cuộc tranh chấp giữa các phe, giáp trong làng xã
. Lý trưởng họ này đổ, lý trưởng họ khác sẽ thay thế, nhưng vẫn cần đến mõ và không hề vì thế mà thay cả mõ. Do “gần gũi” các chức dịch, mõ biết nội tình các cuộc tranh giành giữa các ca nhân hay dòng họ, nhưng mõ không ủng hộ một cá nhân hay phe cánh nào. Mõ không tham gia các hành động bạo lực của chức dịch đối với các phần tử gây rối hay những người chậm thuế ( việc ấy đã có lính lệ làm).
Tóm lại mõ không có hành vi tiêu cực trong đời sống cộng đồng. Trường hợp mõ bị lợi dụng là có, nhưng không phải là nhiều.
Người làm mõ bị dân làng khinh rẻ, xa lánh, nhưng không ai căm ghét như là đối với bọn trộm cắp, lưu manh, và cũng không ai muốn dây vào họ. Con cái mõ không được phép đi học, cũng không ai giao du, kết thân với mõ. Con trai, con gái của những người làm mõ phải lấy chồng thiên hạ và cũng chỉ lấy con nhà mõ, cho dù các chàng trai cô gái ấy đẹp trai, xinh xắn, do không phải lam lũ vất vả, lại khéo ăn khéo nối. Vô hình chung, nghề mõ trở thành nghề cha truyền con nối. Có họ làm mõ, cũng có cả làng làm mõ.
Thời điểm nghề mõ ra đời, cùng đặc trưng của nó cho phép khẳng định, tổ chức làng xã ở Việt Nam, chủ yếu là miền đồng bằng và trung du Bắc Bộ lúc đó đã đạt được một sự ổn định nhất định về cơ cấu. Những làng quá nghèo, hoặc làng nào mới lập thì cũng không có mõ. Và, mõ cũng chỉ có ở cấp làng (xã) chứ không có mõ xóm, mõ tổng hay huyện, phủ , tỉnh (trấn, xứ).
Trong xã hội cũ, mõ bị thành kiến rất nặng nề. Họ là dân ngụ cư, thường ở rìa làng (cho dù họ có tiền thì cũng không thể được mua mảnh đất cao ráo ở sâu trong làng).
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã lật nhào cả ngàn năm của chế độ phong kiến, nghề mõ đã trở thành quá khứ. Nhiều mõ đổi nghề, sống bình thường bên cạnh những người dân khác trong làng, thành kiến của dân làng có giảm, nhưng không phải là tan biến. Con cháu họ có tham gia công tác, đi học, nhưng bạn bè cũng ít gần: bản thân họ lại mặc cảm, tự ti, nên học không giỏi, ảnh hưởng uy tín rất hạn hẹp nên thành đạt ít. Thời tạm chiếm, ở những vùng địch lập tề, cũng có khôi phục nghề mõ.
Đến khi cải cách ruộng đất, nhiều mõ được giao công tác, chia ruộng đất, nhà cửa , trâu bò, nông cụ, nhưng số biết làm ăn thì rất it. Họ thường bỏ làng ra thành phố; lên miền ngược làm đủ mọi nghề và khá vất vả vì không quen lao động chân tay và mặc cảm khá nặng. Họ thường giấu kín tung tích và ngại tiếp xúc cùng nhưng ai biết gốc gác của mình.
Nghề mõ, và người làm mõ có lẽ là sản phẩm đặc thù của chế độ công xã nông thôn Việt Nam mà chủ yếu là ở đồng bằng và trung du Bắc bộ. Xung quanh nhân vật mõ và nghề mõ chắc còn nhiều vấn đề, chúng tôi thiết tưởng rằng cũng rất đáng được các nhà sử học, dân tộc học, xã hội học quan tâm nghiên cứu, trong sự nghiên cứu về nông thôn Việt Nam trong lịch sử nói chung.
*Xin cảm ơn bạn
Hà Thiên Hương
đã gõ lại giúp bài này.
Các tin khác
NHÀ VĂN NGUYỄN XUÂN KHÁNH ĐÃ VỀ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC
GÓP Ý " NÀNH " MẠNH MÀ
CANH BẠC CUỐI CÙNG
NGƯỜI VIỆT HỜI HỢT (phần 1,2)
TÌNH THƠ CÒN MÃI
LƯU TRỌNG LƯ - NHÀ VĂN CỦA TÌNH THƯƠNG
PHẠM VĨNH CƯ VÀ NIỀM KIÊU HÃNH "LÀM NGƯỜI"
NẾU TAO LÀ NHÀ NƯỚC
NGƯỜI VIỆT HỜI HỢT (Phần 3,4,5,6)
LÝ ĐÀO LAN VƯƠNG CỦA PHÙNG VĂN KHAI
MẤT GIA ĐÌNH LÀ MẤT TẤT CẢ
THƯ GỞI CON TRAI NHÂN NGÀY LỄ CHA
HÀI ĐÃ LÓ RẠNG NHƯNG CHƯA THÀNH DÒNG
KHỎA THÂN VÀ MẶC ĐỒ BƠI CHOẢNG NHAU TRANH MỘT BÃI BIỂN
NHÂN CÁCH NGUYỄN HIẾN LÊ
MỘT Ý KIẾN NHỎ VỀ GIẢI THƯỞNG
CHÁU ĐÃ MẤT ĐI MỘT CUỘC ĐỜI
BÁO VĂN NGHỆ NGÀY ẤY VÀ NHỮNG VÒNG DÂY TRÓI…
SỰ THẬT KHÔNG BAO GIỜ CŨ
XIN ĐỪNG NHÂN DANH QUÁ KHỨ. TƯỢNG ĐÀI KHÔNG CHE KHUẤT MỌI THỨ
Bài đọc nhiều nhất
ĐÔI NÉT KỂ VỀ MÌNH
CÂU NÓI BUỒN NHÁT TRONG TUẦN
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: GIỜ CHỈ CÒN CHƯỜNG MẶT RA TRONG THƠ
HUYỀN THOẠI TẮM TIÊN TÂY BẮC
ANH BA SÀM TÁI NGỘ
BẢN TIN CỦA TTX VIỆT NAM
TRẦN NHƯƠNG.COM
10TRUYỆN NGẮN CỰC NGẮN CỰC HAY
CÁ THÁNG TƯ
NHÂN THỂ DỮ TÂM KINH (人体与心泾)