Lời tác giả: Bài thơ này tôi viết vào cuối năm 1978, khi giặc Trung Quốc đã rục rịch gây hấn tại biên giới và để chưa đầy một năm sau chúng đã gây ra cuộc chiến tranh gây thiệt hại dã man đối với đồng bào ta, non sông ta.
Thời gian đó báo Văn Nghệ đã đăng bài thơ này trên trang 1.
Tôi cũng không ngờ 40 năm sau, với sự kiện QH đang chuẩn bị bấm nút “không hoặc có” về việc thành lập ba đặc khu kinh tế trên ba vị trí chiến lược của nước ta. Lòng mỗi người dân yêu nước mấy ngày nay đang thực sự bất an lo cho sự an nguy của tổ quốc. Trước thực trạng, tôi muốn đăng lại bài thơ không ngờ sau 40 năm vẫn mang tính thời sự nóng hổi gửi tới đai biểu quốc hội thay một lời kiến nghị của một nhà văn.
Lời của cha ông – Lời của chúng ta
(Tuyên ngôn của núi sông )
Chúng ta bao giờ cũng muốn
Núi tiếp liền núi
Sông chảy liền sông
Biển Đông là tấm gương
Soi lòng ta bên sóng
Một vầng trăng trong thơ Đường cùng mộng
Một dòng Mịch La nước Sở cùng thương
Một nàng Kiều hai dân tộc vấn vương
Nước mắt Tây Thi và mưu sâu Gia Cát
Nhạc Phi trung trinh .Lã Bất Vi quay quắt
Đã lâu rồi rộn mãi tứ thơ ta
Con khỉ họ Tôn con ta cũng say mê
Lửa Xích Bích sáng một chiều mơ ước
Nhưng thơ và rượu Lý Bạch không làm ta say mà quên được
Dòng chữ cột đồng và món nợ Liễu Thăng
Sĩ Nhiếp khôn ngoan không làm khô dòng lệ Phi Khanh
Tình bạn Triệu Đà và thanh gươm Mã Viện
Giặc Ân đầu tiên và giặc Ân lăm le đến
Nhưng con đường đi sứ hun hút mênh mang
Gánh năng ngà voi, tê giác, bạc vàng
Những viên thái thú
Viên sứ phương Bắc nghênh ngang
Uốn lưỡi cú diều
Làm cha ông ta nửa đêm vỗ gối
Và cả những lần nghĩ lại mà thấy hối
Khi An Dương vương vung gươm chém con yêu
Ông cha ta lúc nào cũng chỉ là Trung Ngạn
Dù có ra oai tới Phiên Ngung vẫn một lòng quay về với cành dâu mơn mởn
Vị ngọt cua đồng, tiếng tu hú bên sông
Là như sư Minh Không
Ngả nón tu lờ bơi về tổ quốc
Là đức Ức Trai như sao Khuê vằng vặc
Cấp thuyền,cấp ngựa cho kẻ bại trận về
Ung dung Côn Sơn nghe đàn suối thầm thì
Kế dụng ngàn năm là nhân nghĩa
Là Lý Ông Trọng phò mã nước Tần bổng lộc cao sang
Vẫn về quê gửi nắm xương tàn
Là thần Tản Viên nhổ bọt vào mâm cỗ Cao Biền
Là Mạc Đĩnh Chi ung dung đối đáp
Làm tất cả dù là quỉ nước Nam
Nhưng không thể làm vương đất Bắc
Ông cha ta bận cày bận cày
Nhưng đã làm Ngô Quyền trên sóng Bạch Đằng
Vì có kẻ làm Hoàng Thao hung hăng
Làm Ô mã Nhi, làm Toa Đô hiếu chiến
Làm Liễu Thăng làm Tôn Sĩ Nghị hầm hè xộc đến
Thì ông cha ta đành làm Trần Quốc Tuấn
Làm Lê Lợi buông chài cầm gươm thần rùa trao
Nguyễn Huệ bỏ cày trên bành voi lộng lẫy chiến bào
Bùi Thị Xuân địu con ra trận
Nào phải ta quên dù một lần chiến thắng
Quên thù hận cha ông để hát khúc “trường chinh”
Ta bỏ qua như cha ông cho qua để sống thanh bình
Mà cũng vì sắc cờ hôm qua của người còn thắm
Bóng đen ngai vàng của hồn ma chưa in đậm
Nhưng hôm nay
Với cháu con ta lại dặn
“Con ơi con, không phải chuyện ngày xưa
Kẻ nào muốn làm giặc Ân
Con hãy làm Phù Đổng
Tre đằng ngà muôn thủa vẫn xanh “(1)
Tháng 12/1978.
Nguyễn Hiếu