Trang chủ » Cùng vui

NHỮNG CHUYỆN SAU VẾ ĐỐI

Lê Bá Hạnh
Thứ sáu ngày 4 tháng 9 năm 2009 3:33 PM
 
 Chiếc xe máy “đề” không nổ, đạp không nổ, đun không nổ... Ông chủ tiệm sửa xe đang đọc tờ báo cũ, vụt đứng dậy vứt xuống ghế, buông một câu xanh rờn: “ Sẽ được thưởng một chiếc xe Cúp “xịn” nhất, nếu tìm được vế đối, câu thách đối này!..”
 Tôi tò mò cầm tờ báo lên đọc thì khủng khiếp: toàn những câu đối  đã truyền miệng nhiều năm như kiểu chơi chữ “ Da trắng vỗ bì bạch” làm đau đầu hoa mắt. Nhưng đoạn cuối những câu thách đối có nói rõ giải thưởng như ông chủ hiệu sửa xe đã nêu. Chiếc mồi câu: “Xe máy “xịn” bóng loáng, êm ro, lướt như bay...”  khiến  tôi can đảm mượn tờ báo về nghiên cứu và viết, tạp chí Cửa biển lại cần bài về câu đối số Tết, ông Tô Hoàng Vũ nhận bài, nhưng chỉ dám lấy bút danh Lê Phúc Hạnh để các hoạ sĩ khỏi chê mình là vịt: đi cũng biết một tí, bơi cũng biết một tí, bay cũng một tí...
Nhớ lại một chuyến đi. Bài đó có tiêu đề:
 
          “…NHỮNG VẾ ĐỐI KHÓ MÀ VUI !”

Chính uỷ tôi sinh ra ở Hà Tiên, làm rể đất Cảng, con trai lớn là lái xe cho của Công ti Du lịch, tài trợ chính cho chuyến đi thăm lại chiến trường xưa Quảng trị...
Một cựu chiến binh mở tờ báo cũ: (*) Đọc bài: “Đi dọc miền Trung- Những vế đối vui mà khó” tác giả Ngô Thi. Những vế đối khó đến ác liệt, những kiểu “chơi chữ” sành điệu của học giả uyên thâm. Cũng là thú vui tao nhã, đam mê và sâu đậm với cảnh, với người, duyên nợ , nợ mãi không thôi. Để người chơi day dứt mỗi độ xuân về!
 Đoàn chúng tôi tạm nghỉ ở Sầm Sơn (Thanh Hoá) anh cựu chiến binh ngâm nga đọc vế đối: “ Cặp trai gái thăm hòn Trống Mái- ngồi quán trống mái, toan giở trò trống mái”. Chúng tôi đứng lặng ngắm hai hòn đá Trống- Mái mà ái ngại cho đôi trai gái nào đó đã làm mất đi vể đẹp nơi đây bền vững và đỉnh đạc biết bao. Khi đứng dưới chân hòn Trống – Mái nhìn bao quát cả khu vực bãi tắm trải dài tắp tít, biết bao đôi nam nữ đang nô dùa với sóng biển xanh ngắt. Chính uỷ kéo cậu con trai đến bên hòn Trống Mái chụp ảnh kỉ niệm.Chính uỷ bảo chúng tôi: “Dịp này xe đến tận Hà Tiên thì hay biết mấy...”
 Ngay lúc ấy anh cựu binh nói to: “Bức ảnh đây là vế đối  còn xa xôi gì nữa: “Hai cha con đến hòn Phụ - Tử, đứng nhìn tử  phụ, đẹp như hòn Phụ - Tử” Nhiều cựu binh còn bắt bẻ “bằng trắc luật lệ” nhưng mọi người đều thừa nhận ý tứ đối đáp như thế là ... miễn chê...
  Buổi trưa chúng tôi chọn một quán cơm ven đường. Chính uỷ vừa nhắp chén rượu ngâm nga vế đối: “Đến xứ Nghệ, ghé quán Hành, uống rượu gừng, nói cà riềng, cà tỏi”
 Rượu quán Hành nhấp vào mềm môi, tiếng “khà” như đẩy mùi thơm của rượu, mũi động đậy hít vào cái mùi thơm của men, hương vị của nếp. Nó đầm đậm trong cổ nửa như muốn giữ lại để nhẩn nha thưởng thức, nửa như muốn uống một hơi cả chén để hưởng nguyên vị đậm êm mà chỉ quán Hành mới có.
 Tiếng cụng li lách cách, anh cựu binh lên tiếng: Tôi xin đọc vế đối, các đồng chí góp ý nhé: “Qua Đồng Xoài, Thăm núi Hồng, ăn cơm dừa, ngủ còn mơ, chanh chấp”
 Một cựu binh khác chỉnh lại: “Về Làng Sen, đến Núi Hồng, uống trà nhài, trà ngâu”
 Thứ rượu Quán Hành làm cả xe chúng tôi cứ như cổ động viên bóng đá, ai cũng nói, ai cũng nghe, chẳn mấy chốc đã tới Hà Tĩnh. Chính uỷ tôi vẫn là người xướng lên vế đối: “Đến Kỳ Anh, anh kỳ em, em kỳ anh, đến kỳ lương sẽ trả”
 Quả thật vế đối rất khó, toàn anh với em, kỳ anh, kỳ em, kỳ lương... Cả xe như nín lại, lặng im suy nghĩ. Bỗng một cựu binh lên tiếng: “Các bạn quên rồi sao? Bữa trước chính uỷ đã chiêu đãi chúng ta một chầu tuý luý tại nhà hàng Trọnh Khách, tôi xin đọc vế đối là: “Vào Trọng Khách, khách trọng chủ, chủ trọng khách, đâu trọng tiền khinh xuất”
 Một cựu binh khác bổ xung: “ Các đồng chí có biết bữa vào nhà hàng Trọng Khách, chính uỷ chúng ta phải ký sổ nợ bao nhiêu không? Hôm đó cậu lính trẻ đã gọi chai rượu Tây, uống xong xót cả ruột , chính uỷ thì xua tay: “ Không sao, không sao, chỗ quen biết mà, theo tôi chỉnh lại vế đối thế này: “Vào Trọng Khách, khách trọng chủ, chủ trọng khách, vì Trọng Hiền kí nợ” các anh có thấy phố bên có quán Trọng Hiền rõ to đó thôi.
 Đến đất Quảng Bình, vẫn anh cựu binh trẻ háo hức đọc to vế đối: “Mặc gió rét, bão gầm, sóng gào, đảo Hòn La vẫn vững”
 Bác Hoà một cựu binh già từ nãy đến giờ vẫn im lặng, bật lên cười khà khà cất cao giọng: “Các cậu đã qua quê “choa” đấy thôi. Tớ có vế đối là: “Dù nắng cháy, cát nung, gió nóng, biển Cửa Lò cứ xanh” Cả đoàn chúng tôi “à” lên và nhìn “choa” tuy ít lời nhưng không quên Xứ Nghệ của mình cũng oanh liệt lắm chứ? Đâu có chịu thua ai!
 Anh cựu binh trẻ mở báo đọc tiếp vế đối: “Chợ Đông Ba, đông ba buổi” Một cựu binh nhanh nhảu đối lại: “Hàng Tốn nhiều, tốn nhiều ngày”. Một cựu binh già chậm rãi nói: “Ừ, Tốn là hướng Đông Nam thôi, sao bằng quê tớ, tại buổi thi nấu cơm vừa rồi làng Khôn Nhất của tớ được giải nhất; tớ xin đọc vế đối là: “Làng Khôn Nhất, khôn nhất làng”
  Cả xe râm ran nhớ tới làng Khôn và hội thi nấu cơm của làng quê bác mới đáng nhớ làm sao? Anh cựu binh trẻ cao giọng xin trật tự mở báo đọc tiếp vế đối mới:
-Đến Cồn Hến, hát nghêu ngao.
-Thăm Cồn Tiên, múa rồng phượng. (Vẫn anh cựu binh nhanh nhảu ứng đối.)
-Về hàng gà, vẽ ngan ngỗng. (Bác Hoà đọc nối tiếp)
-Thăm Đầm Vạc, múa lông công. (Bác Đạt, một cựu binh bổ xung)
Anh cựu binh trẻ châm chọc: “Nghe nói đợt bác đi Đầm Vạc , bị mất đồ, bác gái kêu lắm cơ mà” Bác Đạt cười “khùng khục” Vậy vế đối của mình phải sửa là:
-Thăm Đầm Vạc, kêu công cốc.
Cả xe được trận cười ầm ĩ. Bác Đạt đánh trống lảng: “Các đồng chí có giỏi xin đối hộ vế đối rất khó của nhà thơ Nguyễn Văn Dinh đất Quảng Bình, thách đối thế này: “Sắm mâm ngũ quả, chưng năm trái sầu riêng, vui chung ba ngày tết”. Câu đối này làm nhà báo Ngô Thi đã đỏ mặt, đành chịu, nhờ quý vị xa gần... Bạn nào đối được có thưởng lớn (?)
 Cả xe im lặng, đã mâm ngũ quả lại, năm quả nữa, vừa sầu riêng lại vui chung nữa chứ? Tiên sinh họ Nguyễn cao thủ thật. Đây là quái chiêu của các bậc hiền triết, nhận được giải của nhà thơ đâu có dễ...
 Anh cựu binh trẻ láu táu, vui vể nhất trong xe, giờ im lặng từ tốn: “Các bác có biết không? Gần chục năm qua, không có cái buồn nào hơn cái buồn làm việc xa nhà, xa vợ con, ba ngày Tết phải thường trực cơ quan. Nhưng bây giờ đã khác. Có lẽ nhà thơ họ Nguyễn đã nói hộ em điều đó, em xin đọc vế đối của em là:
          -Mua đĩa bát hoa, bày tám trái khổ qua, mừng lại tuần xuân sắc.
 Chúng tôi mừng cho anh cựu binh trẻ, cái khổ đã qua, đón ngày xuân mới với vợ con. Chính uỷ chúng tôi cười to hết cỡ: “ Cậu đã giúp tớ khỏi phải trằn trọc mãi về câu đối của nhà thơ Quảng Binh, dải đất nghĩa nặng tình sâu mà chúng ta có một quảng đời trai trẻ gắn bó”...
  Chính uỷ nhắc tôi chấp bút chuyến đi thú vị này!
   Tác giả: Lê Phúc Hạnh (Lê Bá Hạnh)
 Bài giải thách đối Tết năm ấy, sang Tết thứ hai và gần đến Tết thứ ba  mà tôi vẫn phải dùng cái xe máy “đề” không nổ, đạp không nổ, đun không nổ... đun mãi mới nổ...
     Lê Bá Hạnh (Hải Phòng)
(*) Báo Nhân Dân hàng tháng- Xuân Canh Thìn- số 34/ 2- 2000
 Bài sau: NHỮNG LẦN TÌM ÔNG NGÔ THI