Bệnh sùng bái danh hiệu, chức vụ… trong giới trí thức từng được Đặng Hữu Phúc (TuanVietNam 24-06-2009) xem như một quốc nạn. Chỉ có thể chia sẻ với một khái quát như thế nếu người ta nhận ra những gì đứng đằng sau cáí căn bệnh có vẻ dễ thương đó là sự liên đới của nhiều “chứng nan y “ cùng là sự tha hoá của giới trí thức cũng như của nhiều lớp người khác.
Mỗi khi nói tới trí thức VN thời trung đại, tôi thường nhớ tới một câu chuyện trong sử cũ.
Nửa cuối thế kỷ thứ XVII, có một trí thức Trung quốc là Chu Thuấn Thuỷ trên bước đường chống Thanh phục Minh nhiều lần đến Việt Nam. Lần ấy, khoảng 1657, nghe Chúa Nguyễn có hịch chiêu mộ những ai biết chữ để giúp vào việc nước, Chu ra trình diện. Nhưng ông cảm thấy chung quanh không hiểu mình, không thi thố được tài năng, lại bị làm phiền, nên bỏ sang Nhật. Sau ông đóng góp rất nhiều vào viêc phát triển xã hội Nhật.
Chu không phải là loại người đọc sách xa lánh sự đời. Một học giả Nhật đã viết về Chu “Cái học của tiên sinh nhấn mạnh về “kinh bang tế thế’. Giả sử nếu cần biến một vùng đất hoang thành phố thị, phải tập hợp sĩ nông công thương, thì một tay tiên sinh có thể cáng đáng để xây dựng nên phố thị. Thay vì “ thi thư lễ nhạc” tiên sinh thích nghiên cứu và tìm hiểu sâu sắc về cách canh tác ruộng nương và cách xây dựng nhà cửa, cách làm rượu làm tương… Tiên sinh có thể dạy người ta bất cứ việc gì” .(1)
Riêng chuyện bộ máy chính quyền Đàng Trong không thể chấp nhận một người như trên, đủ cho ta hiểu trình độ của xã hội Việt Nam thời đó là như thế nào.
Trong tập ký sự của mình, Chu Thuấn Thuỷ kể khi trình diện nhà cầm quyền địa phương, gặp chuyện buồn cười là người Việt Đàng Trong bắt ông ứng khấu ngay một bài thơ rồi viết trên giấy. Tiếp đó câu đầu tiên bị hỏi là “Cống sĩ với cử nhân và tiến sĩ, bên nào hơn ?“.
Khi biết Chu chỉ là cống sĩ, viên quan địa phương có ý xem thường, cho học lực của Chukhông thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình.
Từ câu chuyện về Chu Thuấn Thuỷ tới câu chuỵên về nghệ sĩ Nga Vladimir Ashkennazy mà Đặng Hữu Phúc vừa kể, như là có sự nối tiếp. Hoặc có thể nói cả hai phối hợp với nhau làm nên một đôi câu đối khá chỉnh. Một bên thì không thể hiểu người nổi tiếng lại không có một chức danh nào, còn bên kia thì không cần biết trước mặt mình là người đã được hoàng đế nhà Minh mời ra giúp nước, chỉ nghe cái bằng cấp người đó kể đã bĩu môi chê bai — giữa người ngày xưa với người ngày nay, sao mà có sự ăn ý đến thế!
Từ háo danh tới vĩ cuồng
Đặng Hữu Phúc đã nói tới cái khó chịu khi phải nghe đám người “mở miệng là họ nói tới chức tước “ — tức đám người háo danh — trò chuyện với nhau.
Ai đã sống trong giới trí thức ở ta hẳn thấy chuyện đó chẳng có gì xa lạ.
Anh A và anh B vốn cùng nghề và cùng cơ quan, họ cùng dự buổi họp nhỏ, chứ không phải đăng đàn diễn thuyết trước bàn dân thiên hạ gì.
Thế mà cứ động phát biểu thì từ miệng anh A, vang lên nào là “ như giáo sư B đã nói” ( gọi đầy đủ cả tên họ), nào là “ tôi hoàn toàn đồng tình với các luận điểm giáo sư B. vừa trình bày “ ( Thực ra có luận điểm khoa học gì đâu mà chỉ là mấy nhận xét vụn).
Và B cũng đáp lại bằng cách nói tương tự.
Khi phải dự những cuộc hội thảo ở đó cách xưng hô và nói năng giữa các thành viên theo kiểu như thế này, tôi chỉ có cách ráng chịu một lúc rồi lảng. Tôi không sao nhớ nổi họ nói với nhau điều gì. Và tôi đoán họ cũng vậy. Vì mỗi người trong họ có vẻ còn mải để ý xem người phát biểu đã gọi người khác đúng chức danh chưa, hay để sót, chứ đâu có chú ý tới nội dung các phát biểu.
Không khí nhang nhác như những buổi họp quan viên trong các làng xóm xưa, mà Ngô Tất Tố hay Nam Cao đã tả.
Tại sao chúng ta khó chịu với lớp người háo danh này? Đơn giản lắm, ta thấy họ ấu trĩ, non dại, thực chất họ thấp hơn cái vị thế mà họ chiếm được, không xứng với chức danh họ nhăm nhăm mang ra khoe.
Ai đã thử quan sát tình trạng tinh thần của đám người mê tín hẳn biết, người càng thiếu lòng tin, thì khi vào cuộc mê tín càng cuồng nhiệt.
Giới trí thức cũng vậy, cái sự thích kêu cho to chẳng qua là một cách để xoá bỏ mặc cảm. Kẻ yếu bóng vía lấy cái mã bên ngoài để làm dáng che đậy cho sự trống rỗng bên trong.
Mấy thói xấu mà Đặng Hữu Phúc nêu lên chỉ đáng để người ta cười giễu, ghét bỏ, thương hại. Song ác một nỗi chính nó lại là dấu hiệu đầu tiên của nhiều chứng nan y khác chẳng hạn căn bệnh mà Cao Xuân Hạo trong một bài viết ở cuốn Tâm lý người Việt nhìn từ nhiều góc độ (2) gọi là bệnh vĩ cuồng( me’ganomanie).
Cao Xuân Hạo kể một chuyện mà thoạt nghe chắc chẳng ai dám tin. Hàng năm cơ quan lưu trữ nước mình thường phải thanh lý hàng tấn những hồ sơ “ sáng kiến phát minh “ gồm toàn đề nghị viển vông do người trong nước ùn ùn gửi tới, ví dụ một người đề nghị ta cần mượn của Liên Xô ( hồi đó còn Liên xô ) tên lửa vượt đại châu để bắn vào bắc cực khiến trục trái đất lệch thêm mười độ sao cho VN thay đổi vĩ độ và trở thành một nước ôn đới ( vì tác giả “đề án” này tin rằng chỉ có khí hậu ôn đới mới thích hợp với một tốc độ vũ bão, giúp nước ta đuổi kịp và vượt xa các nước tiên tiến trên thế giới ).
Trong một phạm vi rộng rãi hơn, Cao Xuân Hạo kể về cách nghĩ của mấy giáo sư rởm khi viết sách giáo khoa. Nhiều chương nhiều mục trong loại sách này thường bắt đầu bằng một câu”Lâu nay người ta cứ tưởng rằng (…), song thật ra thì (..). Cái mà “ lâu nay người ta cứ tưởng ” ở đây là những sự thật sờ sờ như “ hai với hai là bốn”. Còn sau mấy chữ “thật ra“ là những phát minh kiểu “hai với hai là chín” mà chỉ có những thiên tài như tác giả mới hiểu được.
Cao Xuân Hạo nói thêm điều đáng lo là ở chỗ phần đông chúng ta khi nghe những điều quái gở ở đây đều thấy bình thường, cùng lắm thì là loại sai lầm dễ tha thứ; còn ai tỏ ý kinh hoàng thì bị mọi người coi là bệnh hoạn vô đạo đức vì đã không tin vào khả năng sáng tạo của những người bình thường.
Cần phải gộp cả thói háo danh và bệnh vĩ cuồng nói trên để phân tích vì giữa chúng có một điểm chung là đều xuất phát từ những người và nhóm người sống trong tình trạng cô lập, không có khả năng tự nhận thức, đứng ngoài nhịp phát triển tự nhiên của thế giới.
Tình hình lại cần được xem là tệ hại bởi nó bám rễ vào bộ phận tinh hoa của xã hội.
Trí thức là bộ phận mũi nhọn của một cộng đồng, những thể nghiệm làm người của cộng đồng đó. Những nhược điểm của trí thức chẳng qua chỉ là phóng to nhược điểm của cộng đồng. Và nếu như những nhược điểm này đã thâm căn cố đế trở thành một sự tha hoá, thì tình trạng của người trí thức sẽ là một phòng thí nghiệm hợp lý để nghiên cứu về tình trạng tha hoá nói chung, từ đó may ra mới có cơ hội nếu không chữa chạy nổi thì ít nhiều cũng giảm thiểu tình hình nguy hại.
Nền giáo dục đơn sơ
Nhiều năm qua chúng ta hay nói một cách hồn nhiên rằng dân ta ham học và trong quá khứ ta có một nền giáo dục chẳng kém gì những nước khác. Bản thân tôi ban đầu cũng tin như thế, sau thực tế ngày càng thấy phải nói ngược lại.
Trong một cuốn sách lịch sử giáo dục (3) tôi thấy người ta chỉ ra rằng thật ra giáo dục là chuyện xài sang. Chỉ những đất nước giàu có mới có tiền của để chi cho giáo dục theo đúng nghĩa của nó.
Khi nền kinh tế ở trình độ tiểu nông manh mún, thậm chí trình độ hái lượm, con người có mỗi việc kiếm ăn đã không làm nổi, ta chỉ có thứ giáo dục ở dạng đơn sơ, kém cỏi.
Ta hay khoe, người dân quê nào ở nông thôn VN cũng sẵn sàng bớt ăn bớt mặc cho con đến học ở các thầy đồ lấy “năm ba chữ thánh hiền”.
Nhưng hãy nhìn kỹ vào những lớp học đó. Trường sở sơ sài. Sách vở tài liệu không có, đến bữa cơm chắc bụng cho người dạy cũng không có nốt ( nhiều truyện tiếu lâm toàn ghi lại chuyện thầy đồ ăn vụng) — thử hỏi sau mấy năm theo học các ông thầy ấy, phần lớn các cậu học trò nhà quê học được gì ? Biết dăm ba chữ để đủ đọc tên mình trong khế ước văn tự thế thôi chứ làm sao hơn được?!
Sự ham học có tính cá nhân nông nổi đó chưa bao giờ kết hợp với nỗ lực của cộng đồng để xây dựng nổi cơ chế giáo dục hợp lý và một nội dung giáo dục lâu dài, có triển vọng .
Đọc lịch sử, đời Lê, sau khi đánh xong giặc Minh, nhà vua lo cầu hiền tài để chọn quan lại ở cấp cơ sở. Chọn như thế nào? Chẳng qua chỉ một số người tinh nhanh đủ chữ ghi chép và … biết làm tính (4).
Theo như cách nói của một tác giả trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật (5) thì một nét đặc thù của trí thức VN trong lịch sử là tính cách lưỡng phân. Ông Nguyễn An Ninh, tác giả bài này giải thích:
– Họ vừa là kẻ sĩ vừa là nông dân.
– Khi không thể sống bằng chữ tức bằng nghề của mình, nhu cầu trí tuệ của họ bị giảm thiểu. Những xung lực cho hoạt động trí tuệ ở họ thường xuyên bị kìm hãm. Gặp hoàn cảnh khó khăn, họ dễ bị hư hỏng.
Tính cách lưỡng phân ấy là cả một ám ảnh, như ám ảnh về quê hương nghèo đói. Ta hiểu tại sao một số trí thức tỉnh táo khi đã thành đạt, vẫn không thể quên nguồn gốc của mình, cái nơi mà từ đó mình đi tới. Đây là lời dặn của Nguyễn Khuyến cho con cái:
Các con nối nghiệp cha nên biết
Nghiên bút đừng quên đậu lúa cà
Thế sao những người nông dân một nửa này vẫn miệt mài đèn sách để có ngày lều chõng khoa cử thì sao?
Việc nhồi vào óc một ít kiến thức cổ lỗ sở dĩ thu hút được toàn bộ tinh hoa nghị lực của nhiều người vì đó là con đường ngắn nhất để được gia nhập vào hàng ngũ quan chức.
Tự hào về nền giáo dục xưa, ta hay đưa dẫn chứng là trong lịch sử, các triều đại đã mở nhiều khoa thi và đã lấy được nhiều tiến sĩ, các bia tiến sĩ đó còn được đặt trong Văn miếu.
Nhưng thử hỏi trước tác của các vị tiến sĩ đó là gì hay chỉ là những bài văn mòn sáo sau khi dâng vua thì chính người viết ra nó cũng quên nó luôn.
Có thể chứng minh sự kém cỏi của nền giáo dục cổ ở một khía cạnh khác.
Nhân xem xét danh sách các tác gia văn học VN bằng con mắt thống kê, người ta đã phát hiện ra một nghịch lý vui vui(6): Đó là nhiều nhà văn nhà thơ VN thời trước nổi tiếng mà không có tác phẩm (đây là nói những tác phẩm dày dặn, có chất lượng đáng kể, được truyền tụng về sau và trở thành một đối tượng mô tả bắt buộc của các bộ từ điển).
Từ điển văn học Việt Nam do Lại Nguyên Ân biên soạn với sư cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường có 276 mục dành cho tác giả trong khi chỉ có 132 mục dành cho tác phẩm. Từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, tính đổ đồng, mỗi thế kỷ chỉ có 7 tác phẩm; riêng thế kỷ XIX khá hơn, có tới 68 tác phẩm được ghi vào từ điển, nhưng số tác giả cũng lớn hơn, tới 78 người.
Cái hiện tượng cây không trái này (đúng hơn, có thể là toàn những trái chua trái héo, không cần cho ai, đời sau không ai buồn nhớ) càng thấy rõ khi nhìn vào hàng ngũ các ông trạng—chúng tôi muốn nói tới trạng chính thống chứ không phải trạng theo nghĩa dân gian.
Theo Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Kho tàng về các ông trạng VN (7) thì không kể triều Nguyễn không lấy trạng nguyên, các triều đại Lý Trần Lê có tới 47 người được phong trạng.
Nhưng phần lớn họ không có tên trong danh sách các tác gia nổi tiếng ở nước ta.
Ngược lại, xét chung các nhà sáng tác thơ văn, từ Nguyễn Du tới Nguyễn Đình Chiểu, từ Nguyễn Gia Thiều Phạm Thái cho tới Tú Xương, nhiều người không thuộc loại đỗ đạt cao.
Riêng về biên khảo, một học giả thực thụ như Phan Huy Chú, tác giả của bộ sách đồ sộ, mang tính cách tổng kết lớn, một thứ bách khoa toàn thư là Lịch triều hiến chương loại chí, chỉ đỗ đến tú tài.
Câu chuyện người đỗ không giỏi và người giỏi không đỗ không chỉ tố cáo sự kém cỏi của hệ thống giáo dục mà còn cho thấy một phần thực chất con người của nhiều ông trạng. Họ chính là điển hình của loại học trò thuộc bài, chỉ biết tầm chương trích cú rồi làm theo những khuôn mẫu sẵn có, nói chung là những cá tính tầm thường, không có quan hệ gì tới tư duy độc lập và sự sáng tạo.
Còn như muốn hiểu tại sao họ thi đỗ thì chúng ta có thể tìm đọc ngay những giai thoại về họ.
Ví như trường hợp Nguyễn Giản Thanh mà trong dân gian thường gọi là Trạng Me. Vũ Ngọc Khánh, trong sách đã dẫn, chép rằng lẽ ra ông này chỉ đỗ loại nhì (bảng nhãn), chẳng qua hôm vào yết kiến vua có cả mẹ nuôi vua ở đấy, bà này thấy Nguyễn Giản Thanh mặt mũi khôi ngô liền ngẫu nhiên hỏi: “Người này chắc là trạng nguyên ?“ do đó nhà vua, vì muốn chiều lòng mẹ nuôi, lấy Nguyễn Giản Thanh làm Trạng.
Đằng sau câu chuyện vui vui, có một sự thật, ấy là xưa kia, việc phong trạng dù được đề cao trên trời dưới biển ghê gớm như vậy, vẫn mang nhiều tính cách ngẫu nhiên tuỳ tiện; các vua chúa rất hay can thiệp vào công việc định giá, phong tặng; các danh hiệu đôi khi chỉ là sản phẩm của những cơn nóng lạnh bất thường của họ.
Là những cường hào phất lên nắm được quyền lực, họ chỉ dùng đám kẻ sĩ nửa mùa chung quanh như một thứ thư lại để sai vặt, và ban phát các chức danh để làm sang cho vương quốc mà họ là chủ.
Họ chỉ cần người trung thành chứ không cần người giỏi. Kẻ bề tôi càng tầm thường hèn hạ thì càng dễ sai bảo.
Chính cái loại trạng xin trạng nhặt được như thế này lại sẽ là người thích khoe khoang trước bàn dân thiên hạ về danh vị của mình.
Thói háo danh chỉ là một biểu hiện nhỏ của sự tha hoá con người — một sự tha hoá không mạnh mẽ nhưng lại đều đều gặm nhấm cả bản lĩnh lẫn nhân cách.
Chung quanh “giới thông thái chân đất”
Bước vào giai đoạn hội nhập, gần đây, những cuộc bàn cãi xuất hiện đều đều trên mặt báo ở ta cho thấy vấn đề về giới trí thức đang là mối quan tâm chung của xã hội. Điều này có lý do chính đáng của nó.
Sự trì trệ kéo dài hàng ngàn năm mà đến nay ta vẫn lĩnh đủ có một nguyên nhân sâu xa: cộng đồng không hình thành nổi bộ phận tinh hoa (elite) của mình. Một chủ nghĩa bình quân tối đa đã níu kéo tất cả lại.
Có điều, không hẳn khi “ngửi” thấy tầm quan trọng của vấn đề là người ta đã nhận thức được nó đầy đủ.
Bằng chứng là nói tới trí thức, người ta thường nêu ra những yêu cầu lý tưởng đâu đâu với tầng lớp này, như đòi hỏi tính độc lập cao, khả năng phản biện để đóng góp mạnh mẽ cho xã hội, rồi từ đó đưa ra nhiều lời chê bai trong đó lời chê nặng nhất là “tư cách phò chính thống” của trí thức VN nói chung.
Tôi muốn thử đặt vấn đề theo một cách khác: liệu trong thực tế lịch sử chúng ta đã có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa chưa? Nếu tạm thời chấp nhận là có một tầng lớp như vậy, thì quá trình hình thành của họ có đặc điểm gì? Tại sao họ dễ bị làm hỏng đến vậy?
Trước 1945, những Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, các tác giả có bài thường xuyên trên Tri Tân Thanh Nghị… đã có ý kiến về vấn đề này mà chưa ai có dịp tổng kết.
Thời của chúng ta thì thế nào? Trên đây tôi vừa thử nhắc lại bài Tính chất lưỡng phân, một nét đặc thù của trí thức Việt nam trong lịch sử trong đó tác giả hé ra cho thấy vai trò của hoàn cảnh hình thành đã ảnh hưởng ngay tới trình độ và chất lượng thấp của trí thức VN ra sao.
Dưới đây xin tiếp tục nêu thêm lớp người có cách sống lặng lẽ ngoài luồng này.
Tuy không nói ra, nhưng có vẻ như với nhiều người, kẻ sĩ Việt Nam chỉ là một loại trí thức chân đất. Một số nhà nghiên cứu gần đây đôi khi còn đi tới những khái quát cực đoan hơn.
Trong một bài viết mang tên Tâm lý dân tộc với cuộc Cải cách hành chính hiện nay(8)nhà xã hội học lão thành Đỗ Thái Đồng cho rằng xã hội cổ truyền VN thiếu ba chỗ dựa cơ bản:
— Không có giai cấp quý tộc trong khi có đông đảo đám quan lại nhất thời.
— Không có tầng lớp trí thức để có được các trào lưu học thuật tư tưởng riêng. Rất hiếm thấy cái cốt cách như Lý Bạch“Thiên tử hô lai bất thượng thuyền”. Học để làm quan, tuyệt đại đa số kẻ sĩ đều mộng làm quan hơn là giữ vai trò thầy đồ… áo rách.
– Không có lớp doanh nhân tung hoành về thương mại hay công nghệ trong nước cũng như ngoài nước.
Trong ba đặc điểm tôi cho là được nêu ra chính xác này, cái thứ hai liên quan đến chủ đề trí thức chúng ta đang nói.
Đáng nhắc nhở đầu tiên là trường hợp Nguyễn Trãi. Theo cách nói thông thường ông là trí thức hàng đầu của dân tộc. Nhưng bảo rằng ông là trí thức cũng đúng mà bảo rằng đây là người đứng trên đỉnh cao của bộ máy quyền lực cũng đúng.
Gia nhập chính trường, vốn liếng và bản lĩnh trí thức sẵn có trong ông hoạt động theo quy luật của nhà chính trị.
Cái chết của Nguyễn Trãi là bi kịch của một quan chức chứ không phải của một trí thức.Trên nguyên tắc, ở ông đã có một sự chuyển đổi, dù không trọn vẹn.
Thuần tuý hơn về trí thức phải kể loại như Chu Văn An, Nguyễn Du… và rõ hơn là Nguyễn Thiếp. La Sơn phu tử có lúc ra cộng tác với chính quyền có lúc quay về ở ẩn. Và ông ở lại trong lịch sử không phải là những đóng góp phò vua giúp nước cụ thể, mà còn là những đề nghị phải cho dịch Tứ thư Ngũ kinh thế này, phải dạy cho trẻ học thế kia…
Trong suốt trường kỳ lịch sử, bao nhiêu kẻ sĩ ở Việt Nam đều được đào tạo theo hướng như Nguyễn Trãi, kể sao hết. Còn loại như Nguyễn Thiếp quá ít, không tạo nên hiệu quả ngay lập tức nên bị chìm trong vô danh và không thể đóng vai trò dắt dẫn xã hội như giới trí thức các xứ khác.
Không đạt đến chuẩn mực cần thiết. Còi cọc ốm yếu. Cấu trúc đã đơn giản lại dễ bị phá vỡ … Những bệnh trạng loại này phải được coi là đặc điểm lớn nhất của giới có học, những kẻ sĩ trong xã hội cũ và ngày nay kêu bằng trí thức. Ngay so với tình hình bên Trung Hoa, “kiểu dáng mẫu mã” trí thức của ta cũng nghèo nàn hơn rất nhiều.
Nói VN thuở ấy không có trí thức cũng tương tự như nói VN trong thời trung đại không có thành thị, mà chỉ có những phố chợ còm nhom hiu hắt, lắt lay tồn tại giữa một bãi lầy nông thôn tăm tối.
Tới đây, lại thấy trong việc đánh giá giới trí thức VN nói chung có một xu thế, xu thế này đã có từ xưa và nay vẫn tiếp tục, nó được cả nhà nước lẫn dân gian chấp nhận:
– Đồng ý, chúng ta chỉ có một lớp trí thức trình độ non kém. Nhưng có hoa mừng hoa có nụ mừng nụ. Nhiều người trong đó có phẩm cách cao có đạo đức cao. Đấy mới là điều cần phải nhớ!
– Chân đất cũng được miễn là “có chữ tâm” và hết lòng vì dân vì nước.
Nên xem xét thế nào mối liên quan giữa trình độ và bản lĩnh, hoặc như cách nói thời nay – giữa tài và đức — với từng người cũng vậy mà cả giới cũng vậy?
Khoảng 1974, ở Hà Nội có cuộc thảo luận trên báo Nhân dân về làm ăn thật thà. Nhà văn Nguyễn Đình Thi nói với chúng tôi:
– Trong nền kinh tế tiểu nông thì không thể làm ăn thật thà được.
Lấy cái ý này của Nguyễn Đình Thi để soi vào vấn đề đang bàn, có thể nói với lớp trí thức non yếu như trí thức phong kiến, câu chuyện bản lĩnh chỉ là một thứ hàng xa xỉ.
Khẩu hiệu của nhà trường ở ta Tiên học lễ hậu học văn .
Suốt thời đi học dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, bọn học trò chúng tôi cảm nhận từ nhà trường một lời cảnh cáo kín đáo: “Thà có một lớp học sinh kém một tí về học vấn rồi ngoan ngoãn, còn hơn là học sinh giỏi mà hư đốn “.
Nhưng kinh nghiệm đi học của bọn tôi lại ngược hoàn toàn. Những học sinh học kém thường lười biếng rồi sau này sinh dối trá lừa lọc. Còn muốn khá ư, người ta phải yêu thầy yêu bạn lắng nghe bài giảng chịu khó suy nghĩ và lẽ tự nhiên là người ta sẽ học giỏi .
Kiêu ngạo chỉ là thói ti toe của mấy cậu học trò nông nổi. Còn những nhân cách lớn khi ngồi trên ghế nhà trường bao giờ cũng khiêm tốn. Vì có tầm mắt rộng. Vì họ hiểu xã hội yêu cầu ở họ rất nhiều, có cố bao nhiêu tưởng cũng không đủ.
Trong thiên ký sự của Chu Thuấn Thuỷ nói trên, có một điểm nữa đáng nhắc lại. Đó là ấn tượng chung của người trí thức lớn Trung Hoa về mấy kẻ sĩ bản địa khi họ quây vào hỏi chuyện người khách từ xa tới.
Thứ nhất, theo Chu nhớ, đó chỉ là những câu hỏi tầm thường. Sự ngây thơ trong tư duy của người hỏi khiến Chu phải cười thầm:
“Người quý quốc đọc những truyện như Tam quốc diễn nghĩa hoặcPhong thần mà cả tin là thật, cứ đến đây hỏi tôi hết chuyện này sang chuyện khác mãi không thôi. [Trong khi ấy thì lại bỏ qua không nghiên cứu những sách kinh điển như Ngũ Kinh, Tam sử ]. Tựa như bỏ vàng ngọc mà chọn gạch đá, nhổ lúa xanh mà trồng cỏ tranh, không hiểu cái gì phải lấy, cái gì phải bỏ ” .
Thứ hai là người ta quá mê muội vì những trò mà nói theo thuật ngữ hiện đại là văn hoá tâm linh.
“Nhưng tại sao chư quân tử từ trên xuống dưới lại cứ đến đòi xem tướng số. Hỏi thật không nhằm chỗ, đến cuối cùng không biết là đã làm nhục Du (Tức CTT). Người coi tướng, người xem sao đông biết bao nhiêu mà đếm cho hết. Trong tứ dân (tức sĩ nông công thương Vĩnh Sính chú) và chín học phái (tức cửu lưu : Nho gia, đạo gia, âm dương gia vv… Vĩnh Sính chú ), họ là hạng người thấp hèn nhất. So họ với nhà nho có đức nghĩa, khác xa một trời một vực, như đen với trắng, như nước với lửa, hoàn toàn tương phản ”.
Tình trạng của giới trí thức mà Chu Thuấn Thuỷ miêu tả ở đây đã xác minh cho nhận xét của chúng tôi — thói háo danh chẳng qua chỉ là dấu hiệu của một tầng lớp trí thức non yếu, tầm thường , dễ dẫn tới tình trạng bán mình một cách đốn mạt.
Còn mọi thái độ dễ dãi với họ chiều nịnh họ mà không dám yêu cầu cao ở họ cuối cùng chỉ đẩy họ sa đà mãi trong tình trạng bần cùng về trí tuệ và nẩy sinh những căn bệnh mới.
Cũng nên nói thêm, sự dễ dãi này ban đầu có vẻ là một thiện ý hoặc nói như chữ nghĩa thời nay – một sự chia sẻ, nó bắt đầu từ một cảm nhận chung về sức ép của hoàn cảnh.
Nó là cách nghĩ từng ngự trị trong xã hội một thời gian dài. Đất nước lo gồng mình lên để chống ngoại xâm. Cuộc sống khó khăn đến nỗi, khi nghĩ về nhau người ta chỉ thấy những điều tốt đẹp, cốt sao giữ lấy cho nhau niềm tự tin, rồi động viên nhau hợp sức trong việc chống trọi lại các thế lực thù địch từ bên ngoài tới.
Tức nó là sản phẩm của những thời đại mà mọi nỗ lực của con người là lo tồn tại, tới mức có thể bảo nền văn hóa của chúng ta là văn hóa để tồn tại.
Còn nếu như đặt vấn đề tồn tại chỉ là chuyện tối thiểu, cái đáng lo hơn, như hôm nay, là chuyện phát triển, chúng ta sẽ phải nghĩ khác về quá khứ và luôn thể nhìn lại khác đi về nhau.
Nay là lúc mọi sự vuốt ve nhau dễ dãi, là không đủ nữa. Công cuộc phát triển đòi hỏi đất nước phải có một tầng lớp trí thức ngang tầm quốc tế và khu vực, ở đó không thể có sự nửa vời, sự tự hạ thấp tiêu chuẩn để làm dáng.
Sự hào phóng của kẻ mô phỏng
Ta hãy theo dõi diễn biến của thói háo danh và bệnh vĩ cuồng trong sự liên hệ với phát triển xã hội.
Nẩy sinh khi cộng đồng trong tình trạng sống cô lập và tự khép kín, ban đầu nó có vẻ như một thói xấu dễ thương.
Tình hình có vẻ sẽ khác đi khi cộng đồng có sự tiếp xúc bình thường với thế giới. Thông thường sự tiếp xúc này làm phong phú thêm cuộc sống mỗi xứ sở đồng thời cũng cung cấp cho người ta tự vượt lên trên mình, kể cả việc khắc phục những thói xấu cố hữu. Dưới ánh sáng những chuẩn mực chung của nhân loại, người ta có dịp suy nghĩ so sánh tự đánh giá, đó là nguồn gốc để các chủ thể có thể trở thành khác đi so với hôm qua.
Tuy nhiên ở đây có thể có hai khả năng. Tiềm năng thay đổi được tận dụng, đó là phương án lý tưởng. Nhưng mặt khác, trong trường hợp có một sự chênh lệch quá lớn, trong bụng tin chắc mình không bao giờ bằng người, thì người ta lại dễ co lại, quay trở về với chính quá khứ của mình, và tự ru ngủ.
Tự ti và kiêu ngạo, hai loại mặc cảm tưởng chừng mâu thuẫn đối lập này nương dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn cho nhau,hợp thành nhân tố tạo sức ì cho các chủ thể yếu ớt.
Nếu biết rằng đây không chỉ là căn bệnh trí thức mà là bệnh chung của cả xã hội chúng ta sẽ hiểu tại sao sức sống của nó mãnh liệt đến thế.
Trong bài Đặng Hữu Phúc có nhắc tới tên và tước hiệu của Phan Thanh Giản. Hiệp biện Đại học sỹ, lãnh Lễ bộ thượng thư, kiêm quản Hộ bộ ấn triện, sung Kinh diên giảng quan, sung Cơ mật viện đại thần, kiêm Quốc tử giám sự vụ, kiêm quản Văn thần phò mã đô uý, Phan Thanh Giản, tự Tĩnh Bá, hiệu Ước Phu. (50 từ)
Sự thực thì đây không phải trường hợp cá biệt gì. Các đời vua chúa VN trong quá khứ chẳng đời nào chịu kém đời nào về khoản này. Một cách ngẫu nhiên tôi muốn nhắc tới trường hợp của vua Lý Thái Tông (1028-1054). Khi Ngài lên ngôi, bầy tôi dâng tôn hiệu như sau ( cũng 50 từ):
Khai thiên thống vận
tôn đạo quý đức
thánh văn quảng võ
sùng nhân thượng thiện
chính lý dân an
thần phù long hiện
thể nguyên ngự cực
ức tuế công cao
ứng chân bảo lịch
thông huyền chí ảo
hưng long đại định
thông minh từ hiếu hoàng đế
- trong nguyên văn viết liền, trên đây tôi phải chép ra thành nhiều dòng cho đỡ nhầm.(9)
Lỗi không phải là ở những người trong cuộc. Đọc lại lịch sử VN cuối thế kỷ XIX thấy Phan Thanh Giản không phải là một nhân cách tầm thường. Là người trong bộ máy, ông chẳng qua buộc phải làm theo thông lệ.
Có vẻ như trong những trường hợp này, việc liệt kê ra hàng loạt hình dung từ để làm đầy danh hiệu cho các quan chức là một thứ nhu cầu của nhà cầm quyền.
Tại sao lại có hiện tượng đó, hiện tượng chính các nhà cầm quyền trên phạm vi quốc gia cũng lạm dụng danh hiệu, cũng háo danh, cũng mắc bệnh vĩ cuồng khiến cho căn bệnh này càng có dịp trở thành quốc nạn?
Xã hội Việt Nam thật sự có bộ mặt riêng khi bắt đầu vươt ra ngoài thế cô lập tự cấp tự túc để hướng về những gì ngoài mình.
Nhưng thế giới lúc đó chỉ có nghĩa là nước Trung Hoa. Không tự nghĩ ra được cái mô hình quyền lực để quản lý xứ sở, văn hoá chính trị của ta hoàn toàn dựa vào Trung Hoa.
Cũng các nguyên tắc ấy, cái hệ thống ấy, cũng các bộ ngành ban bệ ấy, ta bệ vào làm của mình. Thực chất thì biết không bao giờ bằng người rồi. Nhưng càng thất vọng, càng phải che giấu. Cố giữ lấy cái vỏ ngoài, như tên gọi cùng những mỹ từ đi kèm. Thậm chí có nói quá lên một chút cũng không ngần ngại.
Tất cả xuất phát từ cái công thức mà Nguyễn Huy Thiệp đã dùng để mô tả xã hội Việt, một công thức nhiều người muốn bác đi song trong bụng phải nhận là đúng: chất nhược tiểu của xứ sở.
Xuất hiện một tình cảnh tế nhị mà ai cũng cảm thấy nhưng lại thường bảo nhau lảng tránh.
Bề ngoài, giữa thanh thiên bạch nhật, ta khép nép một bề. Khép nép mà vẫn ấm ức. Nên khi quay về tính chuyện trong nhà với nhau, ta lại hết sức hào phóng trong việc đề cao mình. Tự đề cao như một sự phục thù lại, nó là một biểu hiện của phép thắng lợi tinh thần mà Lỗ Tấn đã gọi ra khi tả chú A.Q. Thói háo danh không chỉ là chuỵện nhỏ không đáng chê trách, mà còn có vẻ như phương thức cần thiết để giúp vào việc níu chặt lấy một niềm tin mong manh về bản thân.
Cả cuộc sống tinh thần của xã hội – từ người dân thường đến bậc thức giả– đi theo hướng đó. Nó còn tiếp tục cho đến hôm nay.
Thật chẳng biết nói thế nào khi thấy trong các tài liệu hướng dẫn du lịch, người ta bảo rằng Văn Miếu là một thứ Đại học của Việt Nam.
Có vẻ như trong trường hợp này, chúng ta không những biết mình kém người mà còn biết mình rất khó bằng người.
Nên phải lấy cái danh hão ra mà xuý xoá, rằng tôi có kém gì các anh đâu, các anh có gì tôi cũng có cái đó.
Mươi năm nay mỗi lần giới thiệu các kỳ thi tốt nghiệp đại học thường thấy kèm theo bức ảnh cái cách tổ chức cho học sinh mũ áo để nhận bằng cử nhân ( tương tự như những buổi lế trao giải bên điện ảnh, nghe nói được mô phỏng các cuộc trao giải Oscar)
Cùng với xu thế hội nhập, sự cố gắng để bắt chước bằng được cái bề ngoài này đang có cơ lạm phát.
Thực ra thì ta đang giống ta trong thời phong kiến trung đại hơn bao giờ hết.
Nhân đây nói qua về hệ thống giáo dục và tình trạng học thuật thời Pháp thuộc. Lúc bấy giờ cả nước áp dụng nền giáo dục mà người Pháp mới mang tới. Chưa có đại học, đúng hơn đại học chỉ là một dạng ấu trùng non nớt. Mà nền trung học cũng rất mỏng mảnh, cả xứ Đông dương có được vài trường. Giới trí thức cao cấp không có, chỉ có các trí thức hạng thấp, và họ biết rõ thân phận của mình. Đây là cái thời mà thói háo danh ít có cơ hội phát triển nhất. Bởi sự thực là dưới một dạng thức bất thường là chế độ thuộc địa chúng ta có sự “ nối mạch” với cả thế giới và lấy tiêu chuẩn thế giới để xem xét mình. Lối nhìn nhận tỉnh táo này cũng chấm dứt luôn sau thời thuộc địa.
Nay háo danh hơn xưa
Hai loại trí thức và những căn bệnh giống nhau
Dù có nguồn gốc lịch sử sâu xa trong lịch sử, nhưng phải nhận đến thời nay thói háo danh và bệnh vĩ cuồng ở ta mới phát triển đến giai đoạn cực thịnh — từ những gì mà Đặng Hữu Phúc và Cao Xuân Hạo mô tả thấy toát ra một tinh thần như vậy.
Tại sao ?
Một trong những người viết hay nhất về đời sống tinh thần xã hội VN những năm chống Mỹ là Chế Lan Viên. Đáng nhớ nhất là những câu thơ đầy tinh thần tự hào:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn ngàn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng
Chưa đâu—và cả trong những giờ đẹp nhất
Hoặc một câu khác:
Ta là ta mà vẫn cứ mê ta
Nhiều người tìm thấy trong những câu thơ trên của ông Chế ý nghĩ của chính mình.
Một thời gian dài, suốt những năm tháng chiến tranh và cả chục năm hậu chiến niềm tự hào này của chúng ta mở ra ở cả hai trường suy tưởng.
Trong thời gian, là so với người xưa – người thời nay thấy thương người xưa vì không được như mình.
Trong không gian, là so sánh với con người ở các cộng đồng khác—họ không thể có cái tự hào như mình.
Nhờ tìm thấy sự ký sinh vào một tình cảm thời đại là niềm tự hào này, nó –thói háo danh ở tầng lớp trí thức – càng ngày càng lây lan.
Nói như Cao Xuân Hạo “nó có thể tăng rất nhanh theo cấp số nhân và biến thành một bệnh dịch quật ngã hàng triệu người” (10).
Ngành văn chương mà tôi làm việc thuộc khu vực mà người ta hay nhấn mạnh tính bản địa.
Ngoài cái háo danh kiểu vô thức tập thể — cho rằng văn chương nước mình chẳng kém gì thế giới rồi thường xuyên mũ cao áo dài vái lậy nhau tôn vinh nhau ngay trong sinh hoạt hàng ngày –, còn một lối chạy theo danh vị kín đáo hơn, nhưng chắc chắn hơn. Lo mấy câu thơ của mình được đưa vào sách giáo khoa cho học sinh cả nước học. Lo tên tuổi của mình thường xuyên được nhắc nhở trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nịnh nọt những người được phân công viết văn học sử đương đại, cốt họ dành cho mình vài dòng trong sách và nhờ thế mình sẽ ở lại với vĩnh viễn.
Sự phát triển tính hiếu danh”vượt xa kế hoạch” như thế này có những liên quan đến tình trạng của giới trí thức đương thời cũng như quan niệm của xã hội về họ.
Gọi chung là trí thức thực ra trong xã hội VN từ sau 1945 có hai loại,
1/những trí thức từ xã hội thuộc địa còn sót lại, và
2/ lớp trí thức mới đào tạo sau cách mạng.
Do nhu cầu đoàn kết toàn dân, cách mạng nay không nhắc tới tinh thần “trí phú địa hào đào tận gốc …” như hồi 1930 nữa. Mà đưa họ– các trí thức nổi tiếng cũ vào cuộc vận động xã hội nói chung.
Với các nhân vật có đóng góp cụ thể — như kỹ sư Trần Đại Nghĩa trong quân giới, các bác sĩ như Vũ Đình Tụng, Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di.. trong nghề y, sự tôn trọng mang ý nghĩa sống còn của cả một sự nghiệp.
Đây là điều thường được nhấn mạnh trong các tài liệu chính thức.
Tuy nhiên, muốn hiểu chính sách đối với trí thức cũ cần phải có một cái nhìn đối với cả giới chứ không chỉ một hai người ưu tú.
Xã hội sau 1945, căn bản là xã hội của tư duy công nông nghĩa là của những người hành động. Mọi sự tính toán xa xôi, những công việc không có lợi ích ngay cho sự nghiệp nếu không bị thù ghét thì cũng không thể được xem trọng như đáng lẽ phải có. Cuộc sống hàng ngày quá ư vất vả, thành ra tuy vẫn hiểu chủ trương lớn là trọng trí thức, nhưng trong thực tế người ta vẫn thành kiến với họ, chí ít là không tôn trọng họ, thấy họ quá kềnh càng phiền phức.
Nên nhớ nét chủ đạo của hoàn cảnh là không khí thời chiến. Chiến tranh cào bằng tất cả. Chiến tranh tước đi những tự do tối thiểu của mọi công dân vì lúc ấy cần phải vậy.
Nhà nước dùng người trí thức với tinh thần mặt trận, nghĩa là có tính hình thức kể cả thường xuyên pha phách một chút ban ơn chiếu cố dù không hẳn bao giờ cũng cố ý.
Tôn trọng thì tôn trọng thật song ở đây không thể có vấn đề muốn nghĩ thế nào thì nghĩ.
Một hai người muốn nghĩ khác đi theo cái mạch chung, lập tức bị vô hiệu hoá.
Tôi nhớ một câu chuyện mà đạo diễn Nguyễn Đình Nghi kể với tôi. Cha ông — nhà viết kịch Thế Lữ — có lần bảo:
– Bố hiểu rằng bố đang “được” cách mạng lợi dụng.
Nhưng Thế Lữ cũng nói ngay:
– Có điều, trong hoàn cảnh này, bố chấp nhận sự lợi dụng đó.
Nguyễn Đình Nghi cắt nghĩa: Vì với người Việt Nam trước 1945, đánh đuổi Pháp là một nhu cầu lớn lắm, để đánh đuổi Pháp cần gì người ta cũng sẵn sàng.
Sự phát triển của y học hiện đại khiến con người ngày càng có thêm khả năng chữa được những loại bệnh nan y, mà trong quá khứ các thế hệ trước phải bó tay. Tuy nhiên, một đặc điểm của các loại thuốc đặc trị này là thường có nhiều tác dụng phụ. Trong khi chữa được bệnh này thì nhiều khi con bệnh lại bị tàn phá bởi chứng khác.
Trong các quyết định dung người và đào tạo người cũng có tình trạng tương tự.
Chính sách đối với trí thức vừa nói ở trên xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của những năm khó khăn nên lúc đó ai cũng thấy phải. Tuy nhiên, một điều không thể kiểm soát nổi đã xảy ra, quá trình tha hoá của trí thức bắt đầu từ đây.
Hiểu rằng mình chỉ dùng để làm cảnh, một số trí thức sa vào hư vô và chọn lối sống thụ động. Tối thiểu thì im lặng. Hoặc có làm cũng chỉ làm cầm chừng, theo cách của kẻ làm công, sống buông thả hưởng thụ.
Để an lòng bản thân, và cũng là để mặc cả với xã hội, họ khi vô tình khi có ý thức, bám vào cái hư danh mà họ đã có.
Đấy là căn bệnh dễ hiểu với các trí thức cũ .
Riêng đối với tầng lớp trí thức mới, việc đào tạo sẽ có đặc điểm riêng, chỉ có điều chung là nó cũng liên quan tới sự nuôi dưỡng thói háo danh mà chúng ta đang bàn.
Xu thế tập trung tất cả sức lực cho chiến tranh làm nẩy sinh trong xã hội VN dăm sáu chục năm nay một tâm lý thường trực, là chỉ tính chuyện ăn ngay trước mắt.
Ngay trong thời kỳ 1946-54, một nền giáo dục thời chiến đã được tổ chức để đào tạo nhân tài. Nhưng cũng vì cần phục vụ ngay nên đó là một nền giáo dục mang nặng tính thực dụng, không muốn và không thấy cần đạt tới chuẩn mực cần thiết.
Tình trạng phi chuẩn này còn được kéo dài mãi và trở nên nặng căn thêm bởi lý do sau đây. Khẩu hiệu của cách mạng là giáo dục phổ cập. Nhưng kinh tế thì chưa bao giờ hết khó khăn để đáp ứng nổi nhu cầu của đại chúng về giáo dục. Ngoài cách pha loãng làm nhẹ làm giảm thiểu chất lượng, không còn có cách nào khác.
Theo những quy luật đã chi phối kẻ sĩ thời phong kiến, như vậy là tính háo danh và bệnh vĩ cuồng đã có đủ điều kiện để bắt rễ vào tư duy và nếp sống của lớp trí thức mới được đào tạo. Mà về khoản hư hỏng thì con người ngày xưa làm sao so với con người ngày nay được!
Bước ngoặt trong việc tàn phá giới đại học cũ
và thay thế bằng một lớp trí thức mới
Nhìn vào giáo dục những năm hoà bình 1954-65, cũng như thời chống Mỹ, thấy số năm học ở phổ thông ở đại học có thể tăng, một số thầy giáo được đi học ở Nga, Trung quốc và các nước Đông Âu… Nhưng về căn bản, cái hồn cốt của giáo dục vẫn là chắp vá, tạm bợ, không có khả năng hội nhập với giáo dục thế giới. Các bằng cấp của chúng ta chưa bao giờ được đông đảo các nền giáo dục khác công nhận là một bằng chứng về tình trạng cô lập kéo dài đó.
Đánh dấu bước ngoặt trong ngành giáo dục cũng như trong quan niệm về giới trí thức là năm 1958 và mấy năm sau.
Chịu ảnh hưởng của cuộc đấu tranh chống phái hữu ở Trung quốc, và cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn bên Văn nghệ, giới Đại học trước tiên là khu vực khoa học xã hội đã có một cuộc “thay máu”.
Do tự bộc lộ chính kiến riêng, các giáo sư nòng cốt như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Trương Tửu và lớp trẻ đầy tài năng như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc… bị cho thôi việc hoặc chuyển sang các viện nghiên cứu thực tế là chỉ ngồi chơi xơi nước hoặc làm những việc không quan trọng như dịch tài liệu.
Lớp người thay thế được chọn ra chủ yếu theo tiêu chuẩn chính trị mục đích là giữ sao cho đại học – và các ngành học thuật tương lai – trong tầm kiểm soát.
(Có thể tham khảo thêm những đảo lộn của giới Đại học kỳ này qua bài Hoàng Hữu Yên Một thời để nhớ (Hồi ức) Talawas 27.8.2008 – Chú thích của VTN 31-8-2014)
Ban đầu nhiều người trong số mới lên này nhũn nhặn, tự nhận là mình chỉ đóng vai trò thay thế, không đòi hỏi gì về chức danh, vui vẻ với đồng lương bé mọn mà vẫn chăm chỉ làm việc, và trong thực tế họ đã đóng vai trò thúc đẩy khoa học tiến tới.
Tuy nhiên đến khoảng 1973-74 thì có một tình hình mới.
Trong thực tế giảng dạy và nghiên cứu, nhu cầu chuẩn hoá dù không được đặt ra chính thức, song vẫn như một xu thế mà bất cứ nền giáo dục nào cũng phải hướng tới. Ít ra là bề ngoài ta phải có được hình thức cho dễ coi một chút!
Lại thêm những khía cạnh mới trong tình hình xã hội đòi hỏi điều đó. Cuộc chiến tranh giải phóng bước vào một giai đoạn kết thúc.
Có một phương án sau này không xảy ra nhưng lúc đó được tính tới, đó là những cuộc đối thoại giữa hai xã hội miền bắc và miền nam. Trong cuộc đối thoại đó, không thể bỏ qua tiếng nói của giới trí thức.
Ta cần phải có những giáo sư của ta những trí thức của ta chứ!
Phải chứng minh cho phía bên kia thấy rõ là miền bắc không chỉ biết làm chiến tranh mà còn biết làm học thuật. Và thế là nhu cầu phong cấp phong chức nổi lên, nó là đòi hỏi từ hai phía cả từ bên trong bản thân giới học thuật lẫn nhu cầu của xã hội.
Cái cách của xã hội ta xưa nay vẫn vậy. Thấy cần là làm, không đủ điều kiện cũng làm, làm bất kể phép tắc. Và từ chỗ ban đầu còn chặt chẽ nghiêm túc, sự mệt mỏi và nghiệp dư trong quản lý khiến cho công việc càng về sau càng được tiến hành qua loa dễ dãi,” chín bỏ làm mười mà có khi chỉ năm sáu thôi cũng đã coi là mười. “
Những người cơ hội kém cỏi chỉ chờ có thế.
Họ “lẻn” ngay vào những chỗ đất trống (tôi mượn chữ lẻn từ câu Kiều ‘Đẩy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào” ) và từ chỗ xấu hổ biết điều quay ra chủ động thao túng tình hình.
Một trong những trục cột của đạo Nho là thuyết chính danh ”quân quân—thần thần – phụ phụ- tử tử”. Tức là người nào phải ra người ấy vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con.
Nhưng từ xã hội VN cổ truyền, cái thuyết chính danh ấy đã chẳng xâm nhập nổi để làm thay đổi được ý nghĩ của bất cứ ai, nữa là hôm nay.
Trong phạm vi toàn xã hội hiện tượng danh thực tách rời ngày càng rõ ràng đến mức không ai muốn che đậy nữa. Đục nước béo cò, xã hội càng nhiều bóng tối thì lớp người thiếu học vấn mà thừa mưu mẹo càng dễ lập lờ đánh lận con đen. Còn như những người tài năng thì không ai muốn cố gắng.
Trong giới ai cũng biết một giáo sư đại học hàng đầu, ông Đ., mấy chục năm nay toàn soạn bài và viết báo chay. Tức là không bao giờ để công học và tự mình đọc lấy tài liệu nước ngoài. Có gì cần, ông đã yêu cầu phòng tư liệu khoa thuê dịch rồi cứ dựa vào đấy mà xào xáo. Được cái tính nết chăm chỉ nên lên đến giáo sư đầu ngành và đầu sách in ra đã lên tới con số dăm bẩy chục cuốn. Nghe nói lúc thân mật ông từng truyền kinh nghiệm cho đám đi sau:
–Tội quái gì mà phải học ngoại ngữ ? Để thời giờ mà viết là hơn, giờ ai bằng mình nào!
Phải nói loại giáo sư đại học như thế này không có ở bất cứ nước nào trên thế giới, trừ nước ta.
Chung quanh câu chuyện dễ dãi phi chuẩn mực trong ban phát chức tước Lịch triều hiến chương loại chí ở phần Quan chức chí của Phan Huy Chú từng có đoạn viết:
“Tước cấp ở đời Lê rất là quan trọng. Từ đời Hồng Đức đặt quy chế về sau các đời theo nhau chưa từng cho lạm bao giờ [...]. Gần đây, nhuận triều Tây Sơn phong tước quá lạm,đến cả phu quét chợ lính đẩy xe cũng đều trao cho tước hầu tước bá.
Danh khí tồi đến như thế! Muốn cho khỏi loạn, có thể được không?”(11)
Điều này cũng đúng với việc ban phát các chức tước danh vị trong khoa học, tức là cái mầm gây ra nhiễu loạn, thời nay.
Khi đã chạy theo hư danh, người trí thức
đã bị làm hỏng hoàn toàn
Cách đây khoảng hai chục năm, tôi đọc được trên tấm cạc của anh C. một người quen, bên cạnh tên tuổi có ghi thêm các chức danh sau đây, mỗi chức danh một dòng, tổng cộng chín dòng.
dòng 1:Nghề anh học ở đại học
dòng 2: Nghề anh đang làm
dòng 3 : Chủ tịch Hội….
dòng 4: Tổng biên tập báo…
dòng 5: Đại biểu Quốc hội ( năm đó anh đang là một ông nghị)
dòng 6: Thành viên Uỷ ban xxx của Quốc hội
Ngoài ra là ba chức danh nữa, tôi không nhớ xuể nhưng hình như là các loại giải thưởng được trao tặng.
Ban đầu tôi cũng thấy buồn cười, nhưng sau thì thông cảm.
Hồi ấy anh bạn tôi sau những nỗ lực bền bỉ, từ công việc chuyên môn được ngắm nghía để cơ cấu vào giới quan chức.
Lớn lên từ đám học sinh Hà Nội rồi thành cán bộ nhà nước, chúng tôi đã nếm đủ những đau xót của một bọn người mang tiếng là người làm nghề sáng tạo trong xã hội mà chỉ công nhân nông dân mới được coi là giá trị.
– Vâng chúng tôi đã biết lao động chân tay là giá trị rồi. Nhưng chúng tôi cũng có giá trị của chúng tôi chứ.
– Không được, anh không được biết hơn mọi người!
Luôn luôn chúng tôi cảm thấy mình có tội vì đã coi trọng việc học.
Đó là về tinh thần. Còn vật chất thì sao? Bao giờ đến lượt được mua xe đạp, bao giờ đến lượt được tăng lương, những việc đó chờ đã mỏi cổ, nói chi đến việc có được một cái nhà, xoay được một chuyến đi ngoại quốc?
Không ai tuyên bố chính thức, nhưng tất cả thực tế hình như đồng thanh rót vào tai mình, chỉ có một cách hết nghèo hết khổ là lọt vào tầm mắt của lãnh đạo.
Trở thành quan chức thì tốt nhất. Nếu không thì cũng phải có được những chức danh trong nghề, nó là cái dấu hiệu đánh dấu mình. Dù có phải luồn cúi chạy chọt một chút song vì cuộc sống bản thân và gia đình, hãy ráng mà giành lấy cho mình những danh vị cần thiết.
Tối mắt tối mũi vì quản lý, các ông phụ trách có nhớ được ai với ai. May mà họ vẫn buộc phải giữ lấy cái tiếng là tôn trọng khoa học, là biết lắng nghe chuyên môn. Cách họ thường làm là dựa vào chức danh mà đối xử. Người có chức tước oai một thì người đứng ra phong tước cho kẻ khác oai mười, xưa nay ai mà chẳng biết?!
Nên nhớ ngoài quyền lợi vật chất, những chức danh cũng là điều kiện để người ta làm chuyên môn giỏi.
Có chức danh anh mới dễ xin được kinh phí cho đề tài của mình. Dễ được tiêu tiền. Dễ được chọn người cộng tác.
Không nói đâu xa, ngay trong cái nghề văn chương của tôi, chức danh cũng giúp ích nhiều lắm.
Ngay trong chiến tranh, Hội nhà văn vẫn được sứ quán Pháp ở Hà Nội tặng cho nhiều cuốn sách vừa in ráo mực bên Pháp. Nhưng sách về thì ông tổng thư ký Nguyễn Đình Thi nói ngay với bà Huệ vợ nhà văn Bùi Hiển giữ thư viện là cất ngay vào kho, chỉ ai trong Ban thường vụ Hội mới được đọc.
Không phải ông Thi tùy tiện làm vậy mà đó là lệnh của trên, mãi ông Tố Hữu, Tổng thư ký Hội nhà văn chỉ chấp hành lệnh trên.
Nói của đáng tội hồi ấy với nhiều hội viên Hội nhà văn, giá có cho đọc cũng đâu có biết tiếng Pháp mà đọc.
Những những anh em có biết thì hận. Muốn trau dồi nghề nghiệp – nghĩa là muốn tử tế hơn — cũng không được. Xã hội không cần. Tốt đâm ra khó, còn hư thì tha hồ, khéo xin một chút là trên tha ngay.
Trên đây là câu chuyện của những năm chiến tranh.
Tôi và các bạn cùng lứa lớn lên vào một giai đoạn thực dụng hơn. Sách vở thì chúng tôi không thật cần lắm, nhưng nhiều nhu cầu khác lại xuất hiện. Mà trước tiên là một chỗ để gia đình chui ra chui vào.
Tôi đã nói là cần thông cảm với anh bạn C. với tấm cạc chín chức danh của mình. Vì hồi ấy sau khi ghé chân quan trường đoàn thể , anh đang lo xin đất làm nhà.
Đến đây lại phải kể dài dòng thêm một chút.
Một là tuy biết trên nguyên tắc trước sau làm quan sẽ sớm được chia nhà, nhưng trong thực tế không đơn giản ô tô ma tích có ghế là có nhà ngay. Muốn được miếng ngon miếng sốt, còn phải cạnh tranh chán với các vị quan khác thì mới được như ý.
Mọi loại quan đều như vậy. Huống chi quan trong văn nghệ là do dân cử, có khi chỉ ngồi được vài năm.
Vốn tính thực dụng, anh bạn tôi hoàn toàn hiểu điều đó. Ngồi chưa ấm ghế anh bắt tay ngay vào việc xin đất. Mà anh làm thật khôn ngoan. Người khác hách dịch công khai huy động cả cơ quan lo chuyện riêng cho mình. Còn C. thì hoàn toàn lặng lẽ tự mình làm hết. Lặng lẽ viết công văn. Lặng lẽ đóng dấu. Lặng lẽ đến các nơi có liên quan.
Chính tấm cạc chín dòng của C mà tôi dẫn ra ở trên xuất hiện trong thời gian đó. Tôi thầm dự đoán anh bạn đã phải loay hoay rất nhiều trong việc soạn ra danh sách các chức vụ để không quên một chức nào.
Đây là tôi nói loại người còn đang hiền lành, nhân biết cái danh có thể đổi ra tiền thì lợi dụng nó.
Lại còn loại người thứ hai là điên cuồng săn đuổi danh vị, sau đó mượn danh vị để tiến thân, ngày càng leo mãi lên trong hệ thống quan chức, dù chỉ là trong phạm vi quan chức chuyên môn. So với họ, anh C. của tôi còn tử tế chán.
Nhưng cả loại người này nưã cũng không phải là “ từ trên trời rơi xuống”. Mà họ cũng là sản phẩm của một sự thích ứng—thích ứng với cách đánh giá người và dùng người của xã hội.
Nhưng đây là vấn đề thuộc về khoa xã hội học quan chức mà tôi chưa có dịp nghiên cứu.
...