Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Từ một tập sách, nghĩ về một Nhân cách văn hoá

Vân Long
Thứ ba ngày 16 tháng 10 năm 2012 6:07 PM

đọc Tạp văn, tái bản có bổ sung của Đình Quang
        (NXB Sân khấu, 2012)


 Nhận được cuốn sách mới của GSTS Đình Quang gửi cho, tôi lại như gặp người quen cũ, vẫn cái bìa như cuốn in lần trước: nền bìa là mục lục tên bài,  tên sách là tên thể loại, như một cô gái biết mình đẹp, chả cần điểm trang. Lời nhà xuất bản cũng chỉ vài dòng như chú thích: Giáo sư, Tiến sĩ, Nghệ sĩ Nhân dân Đình Quang là một nhà sư phạm nghệ thuật và đạo diễn thuộc thế hệ hàng đầu của sân khấu Việt Nam. Bộ Tuyển tập Đình Quang (gần 3.000 trang) nghiên cứu về sân khấu, văn học nghệ thuật và văn hoá, đã đem lại Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Tuy không phải nhà văn, nhưng ông cũng thường hay có những phút trải lòng với cuộc sống qua những truyện ngắn, bút ký, hồi ức và tạp cảm…đăng rải rác trên các báo và tạp chí.
Vậy là cuốn Tạp văn tái bản này như muốn nói: Tôi chỉ tiếp tục câu chuyện năm trước thôi mà! (chỉ khác: tập trước 260 trang, tập này 372 trang)    
 Tôi gạt sang bên mấy cuốn sách mới mua hoặc được tặng, bìa  bắt mắt, để đọc ông Đình Quang trước, là một trong số ít người có nhân cách văn hoá mà tôi yêu kính, để tiếp tục lời giới thiệu của tôi 3 năm trước, (đã in trên Văn Nghệ Công an) cũng là để ghi lại những ứng xử, cảm nghĩ văn hóa mà tôi học được ở ông cái phần làm người làm nền cho một đời làm nghệ thuật của ông. 
 Đứng trước cảnh tượng lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng với những quân binh, xa mã ngợp mắt bằng đất nung, chúng ta ai chẳng có nỗi xáo động  về khái niệm thời gian và không  gian,  cá nhân và lịch sử…nhưng đọc những suy nghĩ này của Đình Quang, ta như được định hình, định hướng lại những xáo động ấy: Hình như tôi đang chạm phải nỗi ám ảnh dai dẳng của một con người trước sự sống và cái chết, chạm phải lòng tự giác rằng mình có thể vô biên về mặt không gian, nhưng lại hữu hạn về mặt thời gian. Tần Thuỷ Hoàng quả là có tầm cỡ lớn lao, và cũng từ đó, một sự tiếc nuối cũng lớn lao về cái tầm cỡ của mình. Chẳng thế mà chỉ nghĩ đến khi mình phải nằm xuống, không có người sống đi theo phủ phục thì y đã phải bắt cả ngàn tượng đất nung đứng chầu…(trang 54, Ghi bên khu mộ Tần Thủy Hoàng).
 Từ sự nghiệp thống nhất Trung Hoa to lớn của vua Tần đến ý nghĩ thực tiễn đời thường về cái chết của một nhà văn Việt Nam như Nguyễn Tuân, bà vợ Nguyễn Tuân đã kể với Đình Quang: “ Anh ấy có lần nói với tôi: “…Nếu tôi đi trước thì bà buồn nhưng không khổ, vì bà còn biết tự lo cơm cháo mà ăn. Còn nếu bà mà đi trước thì tôi không những buồn mà còn khổ  nữa, vì tôi chẳng biết tự lo sống thế nào. Thôi thì có gì bà cho tôi đi trước nhé!...”  GS Đình Quang kết thúc bài viết (Nâng chén rượu xuân…nhớ nhà văn Nguyễn Tuân, trang 83) bằng nhận xét:  
 Vốn thích “xê dịch”, anh Tuân đã có một chuyến đi đẹp đẽ qua cuộc đời này. Vả trước lúc ra đi vĩnh viễn anh đã không phải buồn và cũng không    chịu khổ.  Tôi nhớ lại câu trả lời người bạn đang hấp hối của giáo sư ở tập trước: Liệu  có kiếp sau không nhỉ? “ Kiếp sau của chúng ta ở trong “cõi nhớ” của mọi người, và Thiên đàng sẽ đón ta vào lúc lâm chung, khi ta mỉm cười vì một  đời đã không gây đau khổ cho ai!”
 Câu nói đó đã thành một danh ngôn, ít ra đối với tôi. Nó vừa ứng với       người đang theo đuổi một sự nghiệp, vừa hợp với những con người có lối sống hướng thiện, đệ tử của nhiều tôn giáo trên trái đất. 
 Trong kháng chiến chống Pháp, đội ngũ văn nghệ sĩ tập hợp ở hai trung tâm: Việt Bắc và Liên khu 4. Ở Liên khu 4, thời điểm tướng Nguyễn Sơn làm tư lệnh, có hai đoàn nghệ thuật thì Đình Quang mới 21 tuổi đã làm trưởng một đoàn (nhạc sĩ Phạm Duy làm chính trị viên, kịch sĩ Bửu Tiến làm phó đoàn) vào phục vụ chiến trường Bình Trị Thiên “Trước khi chia tay hai đoàn, anh Chu Ngọc còn tranh thủ đạo diễn cho tôi vai Đội Mịch. Tác phong tỉ mỉ, lý giải sâu sắc của anh trong dàn diễn đã như một bài học vận dụng thực tế của những gì anh đã giảng cho chúng tôi trước đó.” (Chu Ngọc từng hoạt động sân khấu nổi tiếng trước Cách mạng) Sau đó mỗi người một địa bàn, chỉ gần mười năm sau hai anh mới gặp nhau. Đình Quang thuộc lớp cán bộ trẻ được tập trung đào tạo: Sau chiến thắng Điện Biên, anh được cử sang Bắc Kinh vào Trung ương Hí kịch học viện. Cuối năm 1959, tốt nghiệp về nước, anh được Bộ cử ra phụ trách lớp huấn luyện (8 tháng) cho hàng trăm cán bộ sân khấu toàn miền Bắc. Rồi sau đó ít lâu, anh được Bộ Văn hoá phân công đửng ra thành lập trường Đại học Sân và Điện ảnh VN mà anh là hịêu trưởng. Xây dựng khung cán bộ cho nhà trường, Đình Quang đứng trước vấn đề nan giải: những bạn học cùng anh ở nước ngoài theo phương pháp mới thì chưa tốt nghiệp về nước, anh phải nhờ cậy các nghệ sĩ lớn tuổi, đàn anh của mình trước đây, tuy các anh không học trường lớp chính quy, nhưng những kinh nghiệm phong phú trên sàn diễn của các anh vẫn xử dụng được khi bổ xung những kiến thức mới. Anh xin Bộ mấy người, trong đó có anh Chu Ngọc, lúc này đang phải lao động ở Kiến An vì dính líu ít nhiều với vụ Nhân văn giai phẩm. Anh Chu Ngọc vui vì được trở lại môi trường nghệ thuật, giúp đứa “em út” của mình ngày trước. Quan hệ của 2 anh trở thành điển hình cho mối quan hệ lớp nghệ sĩ già giầu kinh nghiệm trên sàn diễn với những nghệ sĩ trẻ được tu nghiệp ở nước ngoài về. Mối quan hệ này càng tế nhị khi người học trò cũ của thày Chu Ngọc trở thành thủ trưởng cơ quan, không chỉ ở vị trí lãnh đạo mà cả về kiến thức sân khấu hiện đại cũng nhiều điều có thể truyền thụ lại cho lớp nghệ sĩ già. Nhưng người khó khăn trong xử thế lại là Đình Quang, xử sự thế nào cho phải phép?
Buổi đầu gặp lại nhau, Đình Quang đưa anh Chu Ngọc xem toàn bộ tư liệu về chương trình đào tạo, kế hoạch học tập anh đã soạn trước. Sau vài ngày, Đình Quang mới dám hỏi xem anh định tham gia môn nào? Chu Ngọc rất khách quan và nhũn nhặn nói: “Phương pháp Stanislawski rất mới với mình. Mình là một đạo diễn tự phát và tài tử. Nhưng nhà trường là một lò đào tạo chính quy…Tốt nhất hãy để cho mình tìm hiểu một thời gian “. Và trong khi chờ đợi, anh nhận phụ trách phòng giáo vụ để Đình Quang  có thời gian tập trung vào giảng dạy nhiều hơn. Anh Chu Ngọc đã  mời được cho trường một đội ngũ giảng viên triết, mỹ, âm nhạc, hội hoạ chất lượng nhất lúc bấy giờ! Và những buổi Đình Quang lên lớp giảng về B.Brecht, về Stanilawski ở trường nhà hay các trường bạn mời, Chu Ngọc đều tự nguyện đến nghe chăm chú. Cả hai đều cư xử dè dặt với nhau trong mối quan hệ mới.                          
 Chỉ đến khi có một cuộc họp mặt của lớp già, ( trong đó có GS Nguyễn Lương Ngọc, anh cả của Đình Quang, bạn thân của Chu Ngọc) và Đình Quang cũng “được” tham dự như ngày xưa, anh mới rũ bỏ được sự băn khoăn về quan hệ hai người “Những lúc này tôi có cảm giác anh Chu Ngọc đối với tôi trong một mối quan hệ khác hẳn (lúc ở cơ quan). Ở trường, chúng tôi là những người cộng tác, tôi lại là thủ trưởng, tuy vẫn thân thiết nhưng vẫn có một cự ly nhất định. Còn ở đây, anh rõ là một người anh, anh xưng anh và gọi tôi là chú. Anh đã đối xử với tôi theo hai tư cách: tư cách của một người cộng sự và tư cách một người anh lớn. Anh có tuổi nhưng lại rất mới, có thể nói là hiện đại trong cách xử sự như thế! “    
 Đình Quang kính phục thái độ ứng xử của ông Chu Ngọc, nhưng tôi lại thấy đó là kết quả ứng xử của cả hai bên. Nếu ngay từ buổi đầu, Đình Quang cậy mình như một thủ trưởng, phân công ngay một chức trách cụ thể   gì đó cho Chu Ngọc thì đâu có được thái độ tự nguyện hợp tác như trên. Chu Ngọc được tôn trọng như một người cộng sự ngang tầm, được biết toàn bộ kế hoạch xây dựng trường và tự chọn khâu nào thích hợp nhất với ông.
 Đình Quang ghi lại những trường hợp “đau đầu” trong quá trình hoạt động và những trường hợp khó xử trong các mối quan hệ, ông còn ghi lại và mô tả cả những phút giây mà ông cho là hạnh phúc (theo “16 phút giây hạnh phúc” của Kim Thánh Thán được Lâm Ngữ Đường nhắc tới). Đây là một trong 16 khoảnh khắc hạnh phúc đó: “Một hôm, có người bạn phương xa đã hàng chục năm không gặp, bỗng nhiên xuất hiện. Tôi mừng quá, đứng lên ôm chặt lấy  anh, dù quần áo anh phủ đầy tuyết lạnh”. Anh nói “Trên đường đi công tác, được biết anh chị ở đây nên ghé vào thăm!” 
 “Tôi vội gọi vợ ra chào, giới thiệu đây là một người bạn từ thuở hàn vi và bảo nàng đi chợ chuẩn bị cho một bữa thịnh soạn, đừng quên kiếm một chai rượu ngon để mừng cho cuộc hội ngộ này. Vợ tôi  vui vẻ xách rổ ra đi…Thế là bao nhiêu chuyện xẩy ra những năm chúng tôi xa nhau được bạn kể lại líu ríu, thao thao bất tuyệt. Bỗng, tôi như không nghe được gì nữa, vì sực nhớ mấy bữa qua nhà đang cạn tiền, đã phải rau dưa qua ngày. Không biết rồi vợ tôi sẽ phải xoay trở ra sao? Tôi cứ nhìn ra cửa, thấp thỏm. Nửa tiếng sau thì vợ tôi cũng về. Vật đầu tiên tôi vội nhìn là chiếc rổ trên tay nàng: chiếc rổ đầy ắp rau và thịt thà, ló đầu lên, lại có cả một chai rượu Mao đài nữa. Tôi vừa mừng vừa ngơ ngác, nhìn kỹ vợ tôi từ đầu đến chân. Thì ra chiểc trâm cài đầu mà mẹ vợ tôi cho khi con gái về nhà chồng đã không còn nữa. Ôi! Đó chẳng phải là một phút giây hạnh phúc đó sao?
GSTS Đình Quang cũng có những phút giây hạnh phúc vì bạn, vì người kiểu đó. Đọc đoạn văn này tôi bất giác liên tưởng tới chị Mỹ Hạnh vợ ông, người chơi cello trong dàn nhạc Giao hưởng cùng bộ phận đàn dây với tôi, thời chúng tôi cỏn rất trẻ. Hồi ấy, nếu được kể cô gái nào trong dàn nhạc có phong thái Hà Nội nhất, quý phái nhất, tôi nghĩ ngay đến chị!
 Ở đầu bài viết, tôi đã dùng chữ nhân cách văn hoá để nói về một số người tôi quý trọng. Bởi nhiều người có nhân cách nhưng chưa đủ tầm để gọi nhu vậy! Nhưng một “nhà văn hoá” thì lại không thể…thiếu nhân cách!
 Tạp văn của Đình Quang có giọng văn trong sáng, uyển chuyển, chân tình với người đọc, thành thực với bản thân, đọc ông, tôi như được nghe một người thân tâm sự với mình!    
                                                     (Văn nghệ Công an 15-10-2010)