Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

ĐI TÌM MỘ HỒ XUÂN HƯƠNG (1)

Nhà nghiên cứu Nghiêm Thị Hằng
Thứ sáu ngày 31 tháng 10 năm 2025 8:44 AM



Bài 1:Mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân dấu tích mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương vợ thiếp của ông Trần Phúc Hiển


Những ký hiệu nội dung và hình khắc trên minh bia, bia mộ Giày Thầy Lánh, mộ 1856 Phan Thị và mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân xác định là mộ vợ chồng

Ngày 23 tháng 11 năm 2021 tại kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 41 của UNESCO tại Paris đã thông qua nghị quyết vinh danh nữ sĩ Hồ Xuân Hương là Danh nhân văn hóa thế giới.

Trước đó từ năm 2020, tôi (nhà báo Nghiêm Thị Hằng) đã nghiên cứu về thân thế của nữ sĩ. Từ năm 2021đến nay, tôi cùng nhóm nghiên cứu kiên trì hành trình tìm dấu tích mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương tại TP Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam.

Ngày 15/5/2025 Sở Văn hóa thể thao du lịch tỉnh Quảng Nam đã tổ chức hội nghị mời tôi cùng nhóm nghiên cứu vào báo cáo công trình nghiên cứu khoa học tìm dấu tích mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương tại TP Tam Kỳ.

Báo cáo của tôi, đã đưa ra các căn cứ khoa học chứng minh mối quan hệ vợ chồng giữa 3 ngôi mộ cổ: Mộ Giày (mộ chồng Trần Phúc Hiển), mộ 1856 Phan Thị (vợ cả) và mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân (vợ thiếp Hồ Xuân Hương).Theo đó ở ngôi mộ Giày có chữ Phúc trong tên (Trần Phúc Hiển) đồng âm với chữ (Búc Biên - con dơi trong tiếng Hán) được ký hiệu là hình con dơi đắp nổi trên minh bia và bia mộ. Con dơi này còn ngậm vòng tròn là ký hiệu vòng xích tay tử tù là tội phạm triều đình.

Khắc bên rìa bia mộ, có hình người mặt dơi, cổ có 2 dây thắt chéo là ký hiệu ông Phúc Hiển là tử tù được triều đình ban cho cái chết hành giảo (thăt cổ). Điều đặc biệt, hình con dơi ngậm vòng xích và hình người mặt dơi có 2 dây thắt cổ, từ mộ Giày, sau 31 năm được điêu khắc trên bia mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân (dấu tích mộ vợ thiếp Hồ Xuân Hương) và sau 37 năm được điêu khắc trên bia mộ và bình phong tiền mộ 1856 Phan Thị (vợ cả).

Chúng tôi còn thấy trong phần đỉnh bia mộ và phần tay phải và trái bia mộ có hình con dơi ngậm vòng tròn (vòng xích tay tù nhân) kéo xuống 2 dải tua rua, dải bên trái kết 3 chấm tơ hồng trên mộ Giày Thầy Lánh, xuất hiện trên bia mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân và bia mộ 1850 Phan Thị. Khẳng định mối quan hệ mật thiết mộ người chồng với mộ người vợ cả mộ 1856 Phan Thị và vợ thiếp mộ 1850 ( Hùynh Hoàn Nhân).

Trong khá nhiều bia mộ cùng niên đại nhà Nguyễn chúng tôi nghiên cứu, không có bia mộ nào có những hình khắc trên.

Sau khi nghiên cứu bia mộ, chúng tôi nghiên cứu tới kiến trúc phần mộ. Phần mộ Giày là mộ dài chôn một lần. Xây theo kiến trúc khá đặc trưng của mộ cổ thời Nguyễn với nâm mộ hình mu rùa (hay hình ô van), thành mộ hình móng ngựa, ở giữa cửa mộ có tấm bình phong, nhà bia dựng sát chân mộ, trên bia mộ có minh văn khắc bằng chữ Hán. Bia mộ không ghi ngày tháng năm sinh ngày tháng năm mất của người nằm dưới mộ. Nếu đây là mộ của tử tù Trần Phúc Hiển, theo nghiên cứu của chúng tôi thì ông mất ngày16 tháng 9 âm lịch năm 1819 hưởng dương 43 tuổi.

Như vậy lăng mộ Giày xuất hiện khoảng năm 1819. Phần mộ xây dựng hình o van và 31 năm sau, hình o van lại xuất hiện trên tường hậu lăng bia năm 1850 Huỳnh Hoàn Nhân (mộ vợ thiếp). Đây chính là dấu hiệu kết nối mối quan hệ vợ chồng, giữa mộ Giày Thầy Lánh với mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân. Khi tìm được dấu tích ovan ở mộ Giày chính mộ là tử tù Trần Phúc Hiển, thì hình ovan sẽ dẫn dấu tích đến mộ người vợ thiếp Hồ Xuân Hương mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân cũng có phù diêu hình o van.

Ngoài hình con dơi ngậm vòng ở 2 gốc bình phong tiền mộ 1856 Phan Thị (vợ cả), thì bên rìa phải bình phong trước còn có hình lớn rõ nét người mặt dơi dưới cổ có 2 dây thắt chéo. Đặc biệt ở góc phải hình khắc mặt người đàn ông phong độ, ở cổ có 2 dây thắt chéo. Trong mặt người đàn ông này góc trên phần mái tóc của người đàn ông chính là mái tóc của người phụ nữ trẻ gương mắt tròn, đôi mắt buồn nhìn xuống, phía dưới cằm người đàn ông là hình khắc gương mặt người phụ nữ già đôi mắt nhéo dài, nhũng nét chun tuổi già hiện trên bờ môi trên. Theo lý giải của tôi qua hình khắc đặc biệt này, người đàn ông phong độ chết trẻ (tử từ Trần Phúc Hiển), dưới cổ có 2 dây thắt chéo chính là hình khắc gương mặt tử tù bị xử giảo (thắt cổ), người phụ nữ trẻ mái tóc bồng, mặt tròn, có đôi mắt tròn đượm buồn nhìn xuống, đó là nữ sĩ Hồ Xuân Hương (chết trẻ 49 tuổi hạn), còn người phụ nữ già chính là hình khắc gương mặt bà Phan thị vợ cả (qua đời hưởng thọ 79 tuổi).

Phía dưới bình phong tiền mộ 1856 có hình điêu khắc chiếc bình có 2 chiếc đũa và 1 chiếc thìa, hình khắc này chiếc bình tượng trưng cho gia đình, người chồng là chiếc thìa ( ông Trần Phúc Hiển) 2 người vợ là 2 chiếc đũa (vợ cả là Phan Thị, vợ thiếp là nữ sĩ Hồ Xuân Hương).

Đến đây thì đã chúng tôi đã có những căn cứ lần đầu soi chiếu bình phong tiền mộ 1856 Phan Thị chứng minh bí ẩn Thần mộ Thầy Lánh được mở ra, mộ Giày Thầy Lánh chính là mộ của tử tù Trần Phúc Hiển quê ở Diêm Điền, có gốc tổ tiên ở làng Hương Trà Tây, có người vợ cả là Phan Thị mộ 1856 và vợ thiếp mộ 1850 ông Huỳnh - chính là mộ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương (nay là Danh nhân văn hóa thế giới).

Giải mã bí ẩn mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân đủ cơ sở xác định đây là mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương vợ thiếp của ông Trần Phúc Hiển

Ngoài những ký hiệu điêu khắc trên bia mộ Giày Thấy Lánh và mộ 1850 (Phan Thị mộ vợ cả) mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân còn có những đặc điểm riêng, những hình điêu khắc riêng, trùng hợp hình điêu khắc ở mộ Giày như hình ốc xoáy, phù điêu o van.

1. Lăng mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân, là lăng mộ riêng biệt của người vợ thiếp xây trong vườn nhà (chủ hiện tại thửa đất này là ông Nguyễn Thu), đất của tổ tiên để lại. Mộ ở phía trong vườn, cách lăng mộ1856 Phan Thị (vợ cả) phía ngoài đường đi vào chừng 7 m. Theo phong tục tập quán chôn cất song mộ vợ chồng và mộ vợ thiếp vợ cả, thì mộ 1850 và mộ 1856 không phải là song mộ vợ chồng mà mộ người vợ thiếp xây phía sau mộ người vợ cả.

2. Mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân là mộ của chết trẻ. Theo minh bia mộ này

Đáng ra phải hưởng thọ dài lâu, vì sao lại vội vã lìa cõi đời?. Phù hợp với người

nằm dưới mộ 1850 là vợ thiếp của ông Trần Phúc Hiển-nữ sĩ Hồ Xuân Hương, hưởng dương 49 tuổi.

3. Bình phong Tiền mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân đắp nổi bình hoa Mai (ký hiệu tên nữ sĩ Hồ Xuân Hương là Hồ Phi Mai), phía sau bình phong tiền là hình đắp nổi cây tùng hoa mai, ký hiệu mối quan hệ vợ chồng ông Trần Phúc Hiển như cây tùng, nữ sĩ như hoa mai. Ở bình phong tiền còn có những điêu đắp nổi hình sóng nước, ký hiệu này liên quan đến sóng nước Hồ Tây, nơi di dời phần mộ Hồ Xuân Hương về lăng mộ 1850. Sự đồng nhất giữa hình đắt nổi và họa tiết trang trí hình xoáy ốc ở lăng mộ Giày và lăng mộ 1850 là những hình xoáy ốc, ở tường phải tường trái gần tường hậu trái lăng mộ 1850 là bức phù điêu lớn những hình xoáy ốc và cổng trụ vào lăng mộ cũng là 2 hình xoáy ốc lớn đắp nổi là ký hiệu liên quan đến bài thơ “con ốc” của Hồ Xuân Hương như để lại dấu tích cho hậu duệ đời sau đây chính là phần mộ nữ sĩ.

4. Phía hậu lăng 1850 Huỳnh Hoàn Nhân có phù điêu lớn hình ô van. Phải chăng người xây mộ đã để lại ký hiệu kết nối hình ô van phần mộ Giày (của người chồng là ông Trần Phúc Hiển) với hình ô van phù điêu trên mộ người vợ thiếp (Huỳnh Hoàn Nhân- tức Hồ Xuân Hương).

6. Mộ1850 là mộ cải cát của nữ sĩ Hồ Xuân Hương từ Hồ Tây đưa về quê chồng, mộ còn xương trắng xốp.

Về ngôi mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân, báo cáo của Bảo tàng Quảng Nam số 191 /BC-BT ngày 17/8/2023 nêu rõ tại trang 1: “ Sáng ngày 07/03/2023 huyệt mộ bị đào trộm và lấy đi một số đồ tùy táng, phần xương và hộp sọ bị vứt vương vãi. Sau đó người dân báo chính quyền địa phương lập biên bản buộc phục hồi lại nguyên trạng ngôi mộ”.Thông tin này theo tính trực giác đưa tin đề cập đến việc ngôi mộ 1850 đã bị trộm đào lấy đi một số đồ tùy táng (chiếc tráp nhỏ cổ vật của người phụ nữ) ; Mộ còn phần xương và hộp sọ. Cùng nghiên cứu về mộ 1850, ngày 05/01/ 2023, thành viên đoàn nghiên cứu của chúng tôi đã làm việc với ông Nguyễn Thu, bà Nguyễn Thị Hạnh là chủ vườn có ngôi mộ 1850 và ông Nguyễn Văn Thạnh người được bà Thắm người cùng phường thuê đào mộ, xác định mộ 1850 khi đào lên thấy còn xương và hộp sọ màu trắng. Từ những căn cứ này, chúng tôi nghiên cứu về tập tục việc chôn cất, cải táng ở Việt Nam, để tìm ra bản chất, xác định ngôi mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân là mộ dài hay mộ cải táng? Từ nguyên mẫu phần xương và hộp sọ bị vứt vương vãi có màu trắng xốp, cho thấy đây là mộ cải táng không phải là mộ dài chôn một lần như ở địa phương Quảng Nam. Nếu là mộ dài chôn một lần thì khi trộm đào lấy đồ cổ, xương cốt sẽ lẫn bùn đất, và xương cốt sẽ có màu đen không phải màu trắng xốp. Theo phong tục tập quán chôn cất ở Việt Nam thời nhà Nguyễn khu vực miền Trung và miền Nam người mất thường được chôn cất một lần gọi là mộ dài. Ở miền Bắc mộ chôn sau 3 năm được cải cát, rửa xương cốt sạch sẽ cho vào tiểu sành hay bình sành chôn cất lại. Từ nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra kết luận, hài cốt người nằm dưới mộ 1580 Huỳnh Hoàn Nhân chỉ có thể là hài cốt nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã được cải táng từ nơi chôn cất ban đầu Hồ Tây (theo bài thơ Long Biên Trúc chi từ) của nhà thơ Tùng Thiện vương viết năm 1842 chỉ dấu, sau đó được đưa về quê chồng. Kết quả này mở cho chúng tôi hướng nghiên cứu tiếp, ai là người đã di chuyển mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương và ký hiệu 1850 phải chăng đó chính là thời gian xây dựng lăng mộ này, ai là người xây dựng lăng mộ vì sao người nằm dưới mộ 1850 là có tên tự Huỳnh Hoàn Nhân?


1 Nhà minh Bia mộ Giày với ký hiệu hình con Dơi và trang trí xoáy ốc

2.Bình phong tiền mộ 1856 Phan Thị với bức khắc lồng hình ảnh người đàn ông, một người phụ nữ trẻ và một phụ nữ già, người thắt 2 dây trước cổ và bình đựng 1thìa 2 đũa.

3. Bia mộ 1856 (Phan Thị vợ cả) 2 riềm bia mộ có khắc hình người mặt dơi có 2 dây thắt cổ, như hình bia mộ Giày.

4.Mộ Giày Thầy Lánh (mộ người chồng) hình o van.

5. Phù điêu hình ô van và phù điêu hình xoáy ốc tường hậu lăng 1850 Huỳnh Hoàn Nhân (mộ người vợ thiếp)

6. Mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân bị trộm đào ngày 07/03/2012 còn xương trắng xốp là mộ cải táng.



Bài 2: Vì sao dấu tích phần mộ nghi của nữ sĩ Hồ Xuân Hương

lại có tên chữ là Huỳnh Hoàn Nhân?



(Tiếp theo kỳ trước).

Giải mã bí ẩn mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân là mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương vợ thiếp ông Trần Phúc Hiển đã thay tên đổi họ.

Khi nghiên cứu 3 ngôi mộ cổ: Mộ Giày Thầy Lánh, mộ 1856 Phan Thị và mộ 1850 ông Huỳnh Hoàn Nhân, chúng tôi nhận thấy 3 ngôi mộ này, đều không ghi theo nguyên tắc chung của việc ghi bia mộ. Điều này cho thấy có uẩn khuất liên quan đến thân phận người nằm dưới bia mộ, không rõ ràng.

Nghiên cứu các bản dịch bia mộ, minh bia và những những ký hiệu đặc biệt trong kiến trúc hình họa lăng mộ, chúng tôi đã làm rõ mối quan hệ mật thiết giữa 3 ngôi mộ là quan hệ mộ vợ chồng, cũng như những ẩn ý đa nghĩa, dùng các bài thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong việc giải nội dung bia mộ và minh bia.

· Căn cứ bia mộ và bản dập bia mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân, bằng tiếng Hán:

.

Đại Nam.Hiển khảo giang hạ quận. Đệ tam lang tự viết Huỳnh Hoàn Nhân

mộ chí

Khi triết tự chữ Nhân trong Huỳnh Hoàn Nhân, có 30 chữ nhân nghĩa khác nhau, tôi chọn được chữ nhân theo từ điển trích dẫn là danh chỉ tên người, còn chữ nhân (trong Huỳnh Hoàn Nhân là danh chỉ con người. Do đó trong rất nhiều bản dịch bia mộ 1850, bản dịch của chúng tôi sát nghĩa nhất:

“ Đại Nam. Mộ của người trai thứ 3 là người hoàn hảo tên chữ họ Huỳnh, tổ tiên ở Giang Hạ quận”.

Với bản dịch này, người nằm dưới mộ 1850 không phải tên là Huỳnh Hoàn Nhân mà là người đàn ông họ Huỳnh một người hoàn hảo.

Cũng giống như mộ Giày thầy Lánh, thì người nằm dưới mộ phải là Nguyễn Đức Lánh không phải từ tù Trần Phúc Hiển. Nhưng sau giải mã những căn cứ khoa học đã làm sáng tỏ mộ Giày chính là mộ của tử tù Trần Phúc Hiển. Khi giải mã mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân là mộ của người trai thứ ba, thì không phải mộ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Chúng tôi đã tìm ra bài thơ “Đền Sầm Nghi Đống” của nữ sĩ, với câu thơ “ Ví đây đổi phận làm trai được”để giải mã bí ẩn thân phận nữ giả trai nằm dưới mộ 1850, chính là Hồ Xuân Hương vợ của vợ tử tù Trần Phúc Hiển, để bảo đảm an yên cho ngôi mộ. Mặt khác vì nữ sĩ còn hậu duệ đời thứ 12 của cụ tổ họ Hồ Quỳnh Đôi, em họ của Vua Quang Trung -Nguyễn Huệ, kẻ thù số một của triều đình nhà Nguyễn, nên cũng phải thay tên đổi họ, để tránh sự trả thù của triều đình. Đó là bí ẩn mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương phải thay tên đổi họ là mộ người đàn ông họ Huỳnh.

Chánh đội trưởng Đội số 6 thuộc Vệ và Doanh của Kinh kỳ Thủy sư- Trần Sài người đưa mộ Hồ Xuân Hương về Tam Kỳ năm 1843.

Đại Nam thực lục (quyển 6 trang 287-Nhà Xuất bản Giáo dục 2007), chép:

Các hoàng tử, hoàng thân và các địa thần văn võ cho chí bọn thân biền đi theo

xa giá đều phải hộ vệ xe kiệu… vua Thiệu Trị ra kinh thành Thăng Long tiếp xứ nhà Thanh”. Trong số các hoàng Thân đi theo xa giá đức vua Thiệu Trị có Hoàng thân Tùng Thiện Vương (con trai thứ 10 của vua Minh Mạng), em trai của vua Thiệu Trị, nhà thơ lớn của triều đình nhà Nguyễn. Khi ra kinh thành Thăng Long, Tùng Thiện Vương đã được chỉ dẫn đến viếng mộ Hồ Xuân Hương ở nghĩa địa phủ Tây Hồ bên Hồ Tây vào tháng7 cuối mùa sen tàn và để lại bài thơ “Long Biên trúc chi từ”, ghi lại dấu ấn mộ nữ sĩ năm 1842 ở nghĩa địa ven hồ Tây.

Vậy ai là người đã di chuyển mộ Hồ Xuân Hương về Tam Kỳ-Quảng Nam quê chồng vào năm nào?

Sách Đại Nam thực lục tập 6 chép, cùng đoàn xa giá vua thiệu trị ra kinh thành Thăng Long nhà vua đi bằng 2 phương tiện, đường thủy và đường bộ, như vậy ngoài các đội kỵ binh, vệ binh còn có các đội thủy binh thuộc Thủy sư Kinh kỳ.

Thời điểm năm 1841 trong đội thủy binh của triều đình có người tên Sài họ Trần (quê ở thôn Phú Quý Thượng, tổng An Hòa, huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình) là vùng quê con cháu họ Trần làng Tam Kỳ sinh sống. Có thể ông Trần Sài chính là con cháu họ Trần có họ hàng với quan Tham Hiệp Trần Phúc Hiển?

Ông Trần Sài được Đề đốc Thủy sư kinh kỳ cấp bằng thăng cấp vào ngày 15 tháng Giêng năm Minh Mạng thứ 22 (năm 1841), được thăng lên làm Ngoại úy Đội trưởng Đội 1, vệ 2, Hữu doanh Kinh kỳ Thủy sư và chắc chắn có tham ra xa giá Vua Thiệu Trị ra kinh thành thăng Long năm 1842.

Từ đây một giả thiết được đặt ra, nếu ông Trần Sài cùng đi với Tùng Thiện Vương

đến viếng mộ nữ sĩ, thì ông sẽ biết phần mộ của Hồ Xuân Hương- vợ thiếp ông Trần Phúc Hiển. Đại Nam thực lục trang 369, 394 ,406 và 413 quyển 6 chép: Năm 1842 vua đã “ Thưởng cho các tỉnh Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa đã chế tạo thuyền ngự”, “ Sai khởi công đóng 5 chiếc thuyền đi biển ( Nghệ An 2, Thanh Hóa 1, Quảng bình 2); “ Sai đóng thêm 5 chiếc thuyền Lê Bồng cấp cho các hoàng tử, hoàng đệ đi theo hầu” vàĐóng bổ sung 13 chiếc thuyền hải vận. Ra lệnh cho trong kinh và các tỉnh Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa và Phú Yên phải đóng thêm Hải thuyền”.

Vì có công trong đợt xa giá vua Thiệu trị ra Kinh thành Thăng Long tiếp sứ nhà Thanh nên ngày 22 tháng 7 năm 1843, ông Trần Sài được thăng lên chức Chánh đội trưởng giao chỉ huy Đội 6 vệ 2 lực lượng Thủy sư Kinh kỳ .

Lúc này với cương vị Chánh đội trưởng, ông Trần Sài đã nhận nhiệm vụ ra Bắc đưa các hải thuyền về Kinh đô Phú Xuân, công việc diễn ra khoảng từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1843. Với thành tích này, ngày 13 tháng 11 cùng năm 1843, ông được Đô thống Thủy sư cấp văn bằng thăng chức từ Suất đội lên làm Thí sai Chánh đội trưởng Đội 6, vệ 2 lực lượng Thủy sư kinh kỳ.

Như vậy giả thiết từ tháng 8-10/1843 là thời gian này ông Trần Sài đã thực hiện di chuyển mộ Hồ Xuân Hương về quê chồng, theo di nguyện của bề trên trong gia tộc. Hài cốt của nữ sĩ được bí mật đưa xuống hải thuyền, theo lịch trình về

doanh thủy quân đóng ở cửa biển Thuận An.Từ đây hài cốt nữ sĩ được bí mật chuyển xuống thuyền dân theo sông Tam Kỳ về chôn cất tại mảnh vườn xưa của gia đình ông Trần Phúc Hiển, xưa giáp xã Bình An -Thạch Câu, (nay thuộc khu

vườn của hộ ông Nguyễn Thu đường Nguyễn Xuân Vân, khu phố 8 phường An

Sơn) chôn giữ, đến năm 1850 thì xây dựng lăng mộ.

Ông Trần Hòa Phủ là người xây dựng lăng mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân để

Khi nghiên cứu về minh bia, mộ 1856 Phan thị (vợ cả) và mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân, đều ghi “河 東 叄 岐 士 陳 咊 甫 廑 撰”phiên âm:Hà Đông Tam Kỳ sĩ Trần Hòa Phủ cẩn soạn”, dịch nghĩa: “Kẻ có học ở xã Tam Kỳ, huyện Hà Đông là ông họ Trần biệt hiệu Hòa Phủ kính cẩn soạn bài minh này”.

Thông tin này khẳng định nho sĩ Trần Hòa phủ là người đủ độ tin cậy, để ông Trần Sài giao xây dựng lăng mộ cho người đã khuất và bí mật hành trình người di chuyển hài cốt Hồ Xuân Hương . Ông Trần Hòa Phủ chính là công trình sư xây dựng các ngôi mộ Giày1819, mộ 1856 Phan Thị (vợ cả) và mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân và quan hệ giữa ông Trần Sài, ông Trần Hòa Phủ và ông Trần Phúc Hiển có thể cùng gia tộc?

Trên các lăng mộ, xây dựng các nhau 31 đến 37 năm, Trần Hòa Phủ đã chủ ý để lại các ký hiệu kiến trúc, nội dung bia mộ minh bia, từ mộ Giày ( mộ người chồng) đến lăng mộ 1850 Phan Thị (vợ cả) và lăng mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân (vợ thiếp), như những ký hiệu để lại cho hậu duệ đời sau kết nối thông tin, mối quan hệ giữa 3 ngôi mộ cổ này, là mộ vợ chồng.

Vì sao dấu tích phần mộ nghi của nữ sĩ Hồ Xuân Hương lại có tên chữ là Huỳnh Hoàn Nhân?

Việc mộ Giày Thầy Lánh nghi là mộ tử tù Trần Phúc Hiển phải thay tên đổi họ,

mộ 1856 Phan Thị (vợ cả) chỉ ghi họ, còn mộ 1850 nghi là mộ người vợ thiếp Hồ Xuân Hương phải thay tên đổi họ là mộ người họ Huỳnh mà không là các họ khác?

Gần đây nhất, tháng 4 năm 2025, chúng tôi đã trò chuyện cùng cụ Nguyễn Thị Hạnh (80 tuổi), nhà ở gần khu vườn có 2 ngôi mộ cổ. Cụ Hạnh kể:Mảnh vườn có 2 ngôi mộ cổ từ thời ông nội tôi là cụ Nguyễn Mại. Cụ Mại qua đời để lại vườn cho bố tôi là Nguyễn Đại. Bố tôi cho ông Nguyễn Thu (con trai nuôi) một nửa vườn có 2 ngôi mộ cổ ở phía ngoài, còn nửa vườn phía trong cho tôi. Đến tôi đã qua 6 đời. Đây là đất hương hỏa thừa tự của cụ cố ông nội của tôi, là người đàn bà họ Huỳnh, khi lấy chồng được bên ngoại cho mảnh đất này”.

Từ đây có thể hiểu rõ ngôi mộ 1856 Phan Thị và mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân được chôn cất trên phần đất của tổ tiên người đàn bà họ Huỳnh để lại. Theo phong tục tập quán ở địa phương, ngày xưa các cụ thường chôn cất người trong gia đình ở khu vườn của gia đình. Chiếu theo phong tục này thì cụ cố họ Huỳnh có thể là mẹ chồng của 2 người nằm dưới ngôi mộ 1856 Phan Thị (vợ cả) và mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân. Phải chăng cụ cố họ Huỳnh chính là vợ của tướng Trần Phúc Nhàn, là mẹ ông Trần Phúc Hiển?

Trở lại với những người thừa kế mảnh vườn này mang họ Nguyễn, có thể họ là hậu duệ chi trưởng họ Trần (gia tộc anh trai ông Trần Phúc Hiển đã chuyển sang họ Nguyễn trong vụ án ông Trần Phúc Hiển).

Còn 3 chữ Huỳnh Hoàn Nhân, nếu dịch nghĩa tiếng Hán chữ “hoàn” là động từ “hoàn lại, trả lại” , chữ nhân” là người, chữ “Huỳnh là họ, thì thì Huỳnh Hoàn Nhân nghĩa là “Người này trả lại cho họ Huỳnh. Nếu người đàn bà họ Huỳnh là mẹ chồng, thì người nằm dưới mộ 1850 là con dâu của người đàn bà họ Huỳnh. Nếu dịch chữ : “Hoàn” là tính từ, thì “Hoàn Nhân” là người hoàn hảo, dịch Huỳnh Hoàn Nhân là người hoàn hảo họ Huỳnh. Như vậy người nằm dưới mộ 1850 chính là nữ sĩ Hồ Xuân Hương người con dâu tài danh hoàn hảo của người đàn bà họ Huỳnh. Đến đây là bí ẩn mộ 1850 tự viết Huỳnh Hoàn Nhân, đã được giải mã là mộ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, mang dấu tích họ Huỳnh- họ của người mẹ ông Trần Phúc Hiển.

1. Hậu duệ họ Trần ở thôn Quý Ngọc, xã Tam Phú, thành phố Tam Kỳ chỉ dẫn mộ cụ Trần Sài 4/2025

2.Minh bia mộ 1850 do nho sĩ Trần Hòa Phủ người Tam Kỳ soạn

3 Lăng mộ 1850 Huỳnh Hoàn Nhân

4.Mảnh vườn có 2 ngôi mộ cổ của tổ tiên 6 đờinhà cụ Nguyễn Thu để lại, đất thừa tự bên ngoại họ Huỳnh

ĐT liên lạc : Nghiêm Thị Hằng 0948360597