Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

THƯ NGỎ GỬI ÔNG ĐINH LUYỆN

Trần Nhuận Minh
Thứ bẩy ngày 18 tháng 10 năm 2025 5:32 PM


Tôi vừa đọc bài ông viết về bà Nguyễn Thị Duệ của quê hương tôi, trên VIỆT VĂN MỚI ngày 11/ 10/ 2025, của nhà báo, nhà văn Pháp TỪ VŨ. Rất cảm ơn ông đã quan tâm đến bà, và đã có những đóng góp nhất định trong việc tôn vinh bà đối với nền giáo dục Việt Nam ở thời bà sống.

Việc bà được phối thờ ở Văn Miếu Mao Điền, tôi là một trong những người được tham gia tư vấn ( dù ở mức độ thấp). Tôi cũng có bài viết về ông Nguyễn Hữu Oanh, Phó chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương, thời làm Bí thư huyện ủy Cẩm Giàng, thấy Văn Miếu sụt mái, đã cho chặt 1 cây trong khu vườn Văn Miếu, lúc đó đã có nhiều hoang phế, làm đòn tay và cho lợp lại chỗ ngói bị xô vỡ. Do việc làm này, ông Oanh đã bị kỉ luật Đảng. Ý này trong một hội thảo ở Văn Miếu Mao Điền, tôi đã đọc cho các vị dự hội thảo nghe, trong đó có Nguyễn Hữu Oanh và một số vị lãnh đạo địa phương có mặt.

Khi Văn Miếu Mao Điền trùng tu được khánh thành, có ông Nguyễn Văn An, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội, bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương và nhiều vị lãnh đạo khác của tỉnh Hải Dương và TP Hải Phòng cùng dự. Tôi được Ban tổ chức lúc đó giao cho viết một bài về Nguyễn Bỉnh Khiêm, vì cụ đỗ Trạng Nguyên ở trường thi Mao Điền này, và đã được mời đọc trân trọng trong buổi khai mạc đó, ngay sau phần phát biểu của lãnh đạo Sở Văn hóa tỉnh Hải Dương ( ông Nguyễn Văn An và bà Nguyễn Thị Kim Ngân ngồi dự, nhưng không phát biểu). Bài tôi đọc có tên : “Nguyễn Bỉnh Khiêm, một đại thụ bóng trùm hai thế kỉ”. Bài đã đăng sau đó trên báo Đảng tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng. Xin ông và các bạn đọc lượng thứ cho, để tôi được tiết lộ điều này: Trong “ SỔ VÀNG LƯU NIỆM KHAI TRƯƠNG TRÙNG TU VĂN MIẾU MAO ĐIỀN”, phần ghi đầu tiên là của ông Nguyễn Văn An, sau là bà Nguyễn Thị Kim Ngân. Hai văn bản này do hai Thư kí của hai vị ngồi viết, rồi hai vị ngồi xuống kí. Người thứ 3 là tôi, tôi viết và kí luôn. Nói thế không phải để khoe, mà để, chỉ nói rằng, điều ông Đinh Luyện viết trên báo điện tử VIỆT VĂN MỚI, tôi là người biết và là một trong số những người tham gia từ vòng đầu. Do đó, tôi biết những điều ông nói ( viết) thực hư đến đâu. Ở đây, tôi chỉ nói 1 điều thôi. Bây giờ nếu ông về Văn Miếu Mao Điền, đề nghị Ban quản lí Văn Miếu cho xem bộ hồ sơ đó, hẳn còn quyển SỔ VÀNG và bài phát biểu của tôi trong lễ Khai mạc hôm đó.

Trên cơ sở ấy, tôi góp ý với ông 2 điều :

1 – Về “tượng đồng bà Duệ được tạc và đặt trong khán để thờ” ( như ông nói / viết), thì tôi chưa biết. Có lẽ việc đó được làm sau chăng? làm trong kì khánh thành trùng tu Đền thờ bà tại Chí Linh, mà tôi có được mời, nhưng buổi đó, tôi bận chủ trì một cuộc họp nội bộ, không thể bỏ mà về quê để dự được. Còn lúc đầu tôi tham gia và nhiều năm sau đó, tôi có qua thăm Văn Miếu, bà chỉ là 1 trong các vị phối thờ và chỉ có bài vị, đúng như ông nói ở phần đầu mà thôi.

2 – Còn việc bà Duệ “thi đỗ Tiến sĩ hay cao hơn là Trạng Nguyên” mà ông nói / viết – là trung tâm của bài - chỉ là chuyện hư truyền trong dân gian. Ở ta, có một đặc điểm: những truyện dân gian, thậm chí những đồn thổi ( với nội dung tốt đẹp) trong các cuộc vui của số đông, hay “trà dư tửu hậu” của một số ông đồ làng, dần dần chép vào sách, lúc đầu để đọc cho vui (sách Nhà xuất bản Phổ thông, in mỏng giá rẻ ), vì nó có ích về mặt giáo dục, rồi thành truyện dân gian in cho trẻ con đọc, rồi vài năm sau, chuyển thành sử tham khảo, rồi vài năm sau, thành sử chính thức, thành sách giáo khoa địa phương tham khảo, rồi vài năm sau nưã, thành sách giáo khoa chính thức, rồi ghi hẳn thành sự kiên ( có thật) trong những bộ sách sử sang trọng cao quí, rồi thành sách kinh điển, cho các thế hệ. Tôi đã mất nhiều chục năm “ đánh nhau với các CỖI XAY GIÓ” ấy, về việc này, có việc đã có kết quả, như hai cây muỗm, người Pháp đưa từ Pháp sang, trồng ở Quảng Yên sau năm 1884. Sau đó, ông Thống đốc Pháp cho đào cái giếng lớn sát gốc cây, để lấy nước uống. Bỗng một ngày đẹp trời, 2 cây muỗm Pháp, đã thành luôn HAI CÂY LIM GIẾNG RỪNG còn sót lại, 700 năm, từ ngày cụ Trần Hưng Đạo đóng cọc lim xuống sông Bạch Đằng năm 1288. Việc do tôi đề xuất, sau khi kiểm chứng, đã 20 năm đã đưa ra khỏi sách giáo khoa phổ thông. Bỗng lại một ngày đẹp trời nữa, 2 cây muỗm hơn 100 năm đặc Pháp này, lại thành 2 cây lim Trần Hưng Đạo 700 tuổi, với con dấu cao quí của Thủ tướng Chính phủ, đóng vào bộ hồ sơ công nhận Di tích Quốc gia Đặc biệt. Tôi trực tiếp hỏi lãnh đạo Sở Văn hóa Quảng Ninh, thạc sĩ Hoàng Quốc Thái, phó giám đốc Sở phụ trách Di sản, nói: “ Em làm hồ sơ đó trình UBND tỉnh kí, không có 2 cây lim giả này. Lãnh đạo thị xã Quảng Yên nhận cầm bộ hồ sơ trực tiếp lên Bộ Văn hóa để “ trình bày thêm” cho nhanh. Không biết ai đã viết thêm “2 cây lim” vào hạng mục . Em đã tra, chữ viết tay. Do đó, khi dự trù kinh phí bảo tồn, em không ghi tiền cho “2 cây lim” và dặn Bảo tàng Quảng Yên không đưa khách đến thăm... rồi lâu lâu, bùn lại ném sang ao, anh biết đấy, biết làm sao...” . Gần đây, một nhà trí thức lớn, rất đáng kính, ông GSTS - Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, phát biểu chính thức trong một hội thảo khoa học Quốc gia do Tạp chí Cộng sản và Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh, có ủy viên Trung ương Đảng chủ trì, rằng: “Ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ đã chia tay nhau ở chỗ cầu Bãi Cháy bây giờ. Từ đây. 50 người con trai theo bố lên rừng, 50 người con gái theo mẹ xuống biển”. Tôi rất kinh ngạc về sự phát hiện đọc đáo, rất hiếm có này, của một nhà khoa học chính hiệu, đầu bảng Quốc gia Việt Nam. Tôi xin tờ giấy A4 của Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ninh, viết thư luôn, đưa tận tay tay cho Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh ( thư chắc còn lưu trong văn phòng Tỉnh ủy Quảng Ninh ): “ Nếu ý kiến này đưa vào Kỉ yếu khoa học, đóng 2 con dấu có uy tín vào loại nhất nước, thì tôi vô cùng hoảng sợ”.

Nhân đây, tôi gửi ông ( và bạn đọc tham khảo thêm) bài nghiên cứu của tôi đã đăng nhiều lần trên các báo và tạp chí chính thống xuất bản tại thủ đô Hà Nội, lần lựợt nhiều năm, của các cơ quan Trung ương. Xin ông và bạn đọc, đọc để biết. Tôi tin điều tôi nói là trung thực.

Lại nhớ câu Kiều của cụ Nguyễn Du : “Chữ trinh còn một chút này / Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan” . Tôi hiểu chữ giày là giày vò, chà đạp, “giẫm đi giẫm lại cho nát ” ( theo Từ điển ). còn chữ trinh ở đây là “trung trinh”, sự trung thực của người Việt ta. Mới thấy cụ “ thời sự và hiện đại ” đến mức nào.

KHÔNG ĐƯỢC BỊA RA “ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ”

( Kính gửi ông HOÀNG KHUÔNG)

TRẦN NHUẬN MINH

Bài viết này trở lại vấn đề không mới, nhưng luôn có tính thời sự. Bà Nguyễn Thị Duệ, người cùng quê với tôi, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương, một nhân vật có thật. Tôi chắc bà là người tài sắc song toàn, nên mới được làm phi của cả vua Mạc và chúa Trịnh. Về già, bà đi tu ở quê. Sau khi chết được phong là Tinh Phi (Sao sa) và nhân dân địa phương lập miếu để thờ bà. Bà là niềm tự hào của quê hương tôi. Cụ tổ 7 đời của tôi là Phó đô Ngự sử nhà Lê, Trần Tiến, ( sau được truy phong Lễ bộ Thượng thư ), chép sử của cả thời Lê – Trịnh – Mạc, tác giả Đăng Khoa lục sưu giảng, nay vẫn được tái bản, ghi tên những người đỗ tiến dĩ từ khoa đầu tiên đến trước khi cụ mất (1770) trong đó, không có tên bà. Con cụ là Trợ giáo Thái tử Trần Quí (sách xuất bản ghi theo chức là Trần Trợ – sách giáo khoa ghi là Trần Quí Nha) trong quyển Tục Công dư tiệp kí tái bản nhiều lần, cụ Trợ có ghi chuyện bà Duệ giả trai đi là chuyện dân gian kể cho vui ở địa phương. Tôi đọc bà Duệ giống hệt truyện “Nữ Tú tài” của Trung Quốc.

Do đó, tôi viết bài này, kính mong ông Hoàng Khuông và các vị cho là bà Duệ giả trai thi đỗ đầu của cả 3 khoa trong lúc nhà Mạc bị truy đuổi chưa yên “ chốn dung thân” , là có thật, mà đỗ đầu cả ba khoa liền – Tam Nguyên – đỗ Tiến sĩ – thì tuyệt vời quá. Chi xin cho biết các vị căn cứ vào đâu mà công bố điều đó – tư liệu khoa học nào, độ tin cậy đến đâu… Vì sự tích đó, tôi thấy có trong nhiều sách sử được xuất bản, có cả trong sách giáo khoa… Vì thế, tôi có kính gửi bài viết tới một số vị lãnh đạo Quảng Ninh và Hải Dương để biết, và để hi vọng được nghe lời hướng dẫn…mà học hỏi thêm… chứ tuyệt đối không có ý gì khác cả. Bài tôi gửi lãnh đạo cũng đã lâu, nay muốn được báo đăng để bạn đọc cùng biết. Xin được cảm ơn chung.

Đây là trường hợp ông “ HOÀNG KHUÔNG, Thương Hiệu và Pháp Luật”, tôi nghĩ dòng sau tên ông, là xuất xứ của bài báo ông đăng lại trên Vanvn, cập nhật 31/10/2024, của Hội Nhà văn Việt Nam.

Tôi tìm hiểu thì biết đây là Tạp chí điện tử Thương hiệu và Pháp luật, với tên tuổi những người làm báo rất đáng kinh nể. Tôi CÓP y chang ra như sau:

Hội đồng Cố vấn, Biên tập

1. TS. Lê Ngọc Dũng – Chủ tịch

2. TS. Lê Doãn Hợp

3. Ông Vũ Trọng Kim

4. TS. Thang Văn Phúc

5. TS. Nguyễn Tiến Dĩnh

6. Thạc sỹ Đào Bình

7. Nhà báo Phạm Thị Lý

Tổng biên tập:

Th.sỹ, Nhà báo Đào Bình (Nguyễn Văn Bình)

Phó tổng biên tập:

Nhà báo Đỗ Minh Tuấn
Nhà báo Khổng Thị Nhung.

Trước hết, tôi cảm ơn Tạp chí Thương hiệu và Pháp luật và sau đó cảm ơn Vanvn đã đăng lại bài của ông. Tôi cũng cảm ơn ông, đã chú ý đến bà Nguyễn Thị Duệ của quê hương tôi. Nhưng điều tôi hoàn toàn không hiểu được, tại sao ông lại ghi cái điều ông bịa ra ấy có ghi trong Đai Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT). Điều tôi chỉ thấy có trong nhóm mà từ năm 1991, tôi đã gọi là Sử thổ phỉ. Tôi khuyên ông không nên tự nguyện tham gia vào nhóm Sử thổ phỉ này.

Vanvn đã đăng lại bài của ông từ Thương hiệu và Pháp luật, tôi CÓP lại y chang đoạn đầu như sau:

Nguyễn Thị Duệ: Nữ trạng nguyên duy nhất trong lịch sử Việt Nam, có gì đặc biệt?

CẬP NHẬT NGÀY: 31 THÁNG MƯỜI, 2024 LÚC 22:04

Lịch sử khoa bảng Việt Nam ghi nhận một nữ trạng nguyên duy nhất, đó chính là bà Nguyễn Thị Duệ (quê ở làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương).

Nguyễn Thị Duệ: Nữ trạng nguyên duy nhất trong lịch sử Việt Nam, có gì đặc biệt?

Giáo dục Việt Nam thời phong kiến coi trọng Nho học, phụ nữ không có quyền tham gia thi cử. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Duệ là ngoại lệ. Bà không chỉ là nữ tiến sĩ đầu tiên ở nước ta, mà còn là nữ trạng nguyên duy nhất trong lịch sử khoa bảng.

Nguyễn Thị Duệ – nữ trạng nguyên duy nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam

Ngày 14.3.1574, ở vùng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, Hải Dương, một nữ nhi ra đời. Vốn sinh ra trong một gia đình Nho học nghèo khó, Nguyễn Thị Duệ (còn gọi là Nguyễn Ngọc Toàn), hiệu Diệu Huyền sớm thể hiện sự thông minh trác việt. Duệ cũng yêu thích chữ nghĩa từ nhỏ.

Tương truyền, bà biết viết văn, làm thơ khi mới 4 tuổi. Vừa thông minh lại sở hữu nhan sắc xinh đẹp, nên khi mới chỉ hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều gia đình quyền quý trong vùng hỏi cưới, đính hôn, nhưng bà không đồng ý”.

Tương tuyền cũng có nghiã là hư truyền, là chuyện trong dân gian, chả nói làm gì. Nhưng tiếp theo, ông Hoàng Khuông viết tiếp:

Trong ĐVSKTT có dẫn, năm 1592, khi chúa Trịnh Tùng đem quân đánh chiếm Thăng Long, nhà Mạc thất thế, chạy lên Cao Bằng. Nguyễn Duệ cùng cha theo lên đây”

Theo ông Hoàng Khuông, thì ĐVSK TT ghi tiếp như sau:

“Năm Giáp Ngọ (1594), khi nhà Mạc mở khoa thi cử để tìm kiếm nhân tài giúp nước, thu hút nhiều sĩ tử, trong đó có bà Nguyễn Thị Duệ. Bà lấy tên Nguyễn Ngọc Du, ăn mặc giả trai đăng ký dự thi. Trong các kỳ thi Hương, Hội và Đình, bà đều đỗ đầu và trở thành trạng nguyên. Khi ấy, bà chỉ khoảng 17 – 18 tuổi.” (tôi nhấn mạnh – TNM)

Sau đó là một đoạn khác. ông Khuông viết tiếp :

“… khi triều đình mở tiệc đãi tân khoa, Nguyễn Thị Duệ lúc ấy lấy danh là Nguyễn Du đến làm lễ đầu tiên. Thấy tân trạng mặt hoa da phấn, thân hình mảnh mai, sóng mắt long lanh, vua mới ngờ vực rồi hỏi và được biết Ngọc Du thực chất là con gái.

Cả triều đình kinh ngạc vì chuyện xưa nay chưa từng có, cho rằng đây là tội khi quân, khó thoát khỏi án chết. Tuy nhiên, vua Mạc không trừng phạt, còn tỏ ra quý trọng tài sắc của bà, cho lấy lại tên cũ, ban cho làm lễ quan trong cung dạy chữ và lễ nghi cho các cung tần, thị nữ.”

Thưa ông Hoàng Khuông. Trong tất cả những điều trên, tôi chỉ quan tâm có một điều thôi: theo ông, thì ĐVSKTT (đã dẫn): Năm Giáp Ngọ (1594) bà Nguyễn Thị Duệ cải trang làm nam giới thi đỗ Trạng nguyên.

Trước hết tôi tra trong ĐVSKTT. Tôi có 6 bộ ĐVSKTT của 6 lần in khác nhau. Lần nào sách in ra, tôi cũng mua 1 bộ và đối chiếu các lần in khác nhau hoàn toàn như nhau.

Bộ sử tôi vẫn để đầu giường là của Nhà xuất bản Thời Đại năm 2013. Sở dĩ tôi chọn bộ này để thường xuyên tra cứu, vì cả bộ sử, sách in gộp vào 1 tập, khổ lớn, giấy rất trắng, cỡ chữ lại lớn hơn tất cả các lần in khác, nên dễ đọc.

Từ trang 891 đến trang 895 của bản in bộ sử này, ghi toàn bộ các vụ việc xảy ra của năm Giáp Ngọ (1594) của nhà Mạc, tuyệt đối không có 1 chữ nào về vua Mạc mở khoa thi Tiến sĩ năm Giáp Ngọ (1594) – chưa kể là có đến cả 3 cuộc thi trong 1 năm – và bà Duệ không những đỗ Tiến sĩ mà còn đỗ Trạng Nguyên. Các năm sau, ĐVSKTT ghi tiếp về nhà Mạc, cũng như thế, HOÀN TOÀN KHÔNG CÓ MỘT CHỮ NÀO có cái điều như trên. Dẫn quốc sử mà bịa ra quốc sử để làm chứng, cho cái lí sự bịa đặt của mình, thì chỉ có ông Khuông mới dám làm. Ông liều thật, coi thiện hạ không ai biết gì.

Vậy việc bà Duệ thi đỗ Trạng Nguyên năm Giáp Ngọ (1594) có trong ĐVSKTT là do ông Hoàng Khuông bịa ra trên tạp chí điện tử “Thương hiệu và Pháp luật”.

Vài năm trước, tôi có đọc một bài nghiên cữu rất công phu của nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình Đặng Văn Sinh, người Chí Linh, Hải Dương, cùng quê với bà Duệ. Ông Đặng có cơ sở khi đưa ra ý kiến rằng: Bà Duệ thi đỗ Trạng Nguyên, hoàn toàn là một chuyện hư cấu (bịa đặt). Và chuyện hư cấu này đã thành lịch sử, có trong tất cả các sách lịch sử, kể cả các sách giáo khoa dạy cho trẻ con về sự trung thực trong phẩm chất không thể thiếu để làm một con người Việt Nam ở thời đại mới (như những sự kiện và nhân vật lịch sử có thật).

Trong Đăng khoa lục sưu giảng của Phó đô Ngự sử Trần Tiến, ghi tên Tiến sĩ các khoa thi từ khởi đầu đến trước năm ông mất (1770), không có tên Nguyễn Thị Duệ (tên thật của bà, hay các tên khác, bà đổi, để “cải trang” như Nguyễn Ngọc Du, Nguyễn Ngọc Toàn, hay Diệu Huyền… như đã nêu). Tập sưu tầm biên khảo Tục Công dư tiệp kí của Trợ giáo Thái tử nhà Lê, Trần Trợ, có ghi bà Duệ giả trai đi thi là chuyện dân gian hư truyền. Cả 2 tác giả này đều cùng huyện Chí Linh, quê bà Duệ.

Khi truyện hư cấu dân gian, được biến thành lịch sử , thành có thật hiển nhiên như các giá trị lịch sử được tôn vinh khác, với giá trị chính xác, trung thực cao quí, thì sự hòa nhập và thăng hoa trong đời sống thực tiễn, nhất là các dịp Tết, tế lễ đầu Xuân, ngày nhà giáo VN, ngày 20. 10… được tổ chức hoành tráng…như đã diễn ra từ vài chục năm nay, về bà Duệ, ở Chí Linh, Hải Dương, với hàng loạt các sự kiện mà chúng ta tôn trọng, là như thế nào, chúng ta đều đã biết rồi (?)…Ai tin ? Ai không tin ?...

Còn đây là suy xét của tôi: Vua Mạc thất trận chạy lên Cao Bằng, năm 1592, quân Trịnh vẫn còn truy đuổi…, trong khoảng hơn 1 năm, đến 1594, lo xây dựng cung điện cho vua thiết triều, nhà các cơ quan chính phủ làm việc, bố trí chỗ ăn, chỗ ở, cho các quan chức triều đình và các quan hậu cần, hoàng hậu và cung nữ, cùng đội quân hộ tống, các nô tì phụ vụ..., chưa kể hàng ngàn quân lính canh giữ vùng cát cứ … còn chưa xong. Làm sao mà nhà vua có thể tổ chức BA kì thi ( trọn bộ) có tính Nhà nước, liên tục trong thời gian đó, trong lúc rối ren đó… khi còn “chân ướt, chân ráo”: thi Hương, thi Hội, thi Đình, để bà Duệ giả trai thi đỗ đầu. mà đỗ đầu cả BA KHOA liền – đỗ TAM NGUYÊN rồi TRẠNG NGUYÊN. Nói khoác cũng phải có Học, có Nghề, mới nói được, ông Khuông ơi !. Và chúng ta ngày nay, làm sao mà tin được điều nói khoác ( lộ liễu) ấy là có thật, thưa ông, để mà làm Lễ chiêm bái cấp quốc gia cho toàn dân ngày hôm nay và làm địa chỉ dẫn dắt cho các thế hệ học trò muôn đời sau… tiếp bước làm người có Lễ nghĩa và biết Trung thực. Tôi hoàn toàn không hiểu nổi… Vài lần dự các cuộc tế lễ của các Lễ hội như thế, ở một số địa phương, tôi nghĩ rõ ràng là mình đang tự lừa mình, rồi lại hào hứng chân thành đi lừa người khác, cứ thế nhân lên…Với tư cách là một người lương thiện, còn biết ân hận và nhất là ơn giời, còn biết xấu hổ, tôi thấy lòng mình … rất xót xa. Không biết còn có ai như tôi không?

Nhân đây, tôi nói thêm 2 chuyện, mà tôi nghĩ chúng ta nên tham khảo, để từ đó sẽ dễ dàng đồng cảm với tôi hơn, khi tôi kiến nghị với Quốc hội và Nhà nước một việc ở cuối bài báo này :

1 – Tôi đã 2 lần được mời sang Đài Loan, đã nghe ở Đài Nam, chuyện bà hàng nước báo cho ông Trần Thành Công ( như ông Trần Hưng Đạo của ta) về cái khe lạch cách đó vài dặm, khi triều cường, có thể đưa đoàn thuyền trận vào vùng vịnh, và ông Thành Công đã nghe theo bà hàng nước này, mà đánh tan quân Hà Lan, giải phóng Đài Loan. Vậy bà hàng nước Đài Loan và bà hàng nước Bến Rừng (Quảng Yên) báo cho ông Trần Hưng Đạo ngày giờ nước lên để đóng cọc gỗ, đánh tan đoàn thủy quân Nguyên Mông, có họ hàng gì với nhau không? Nên nhớ, theo bia đá còn đó, đền thờ Trần Hưng Đạo ở bến Rừng hiện nay mới xây năm 1936, dựng bia năm 1942, và đền Vua Bà (bà hàng nước), cũng mới được xây trong dịp này. ( vậy mà sách sử của ta đều ghi là xây từ thời Trần ở đây, - trước đó 700 năm mới SỢ chứ ). Tôi đã đứng trong pháo đài của quân chiếm đóng Hà Lan, trước ở trên bờ biển, nay ở trung tâm đô thị khang trang nhất của thành phố Đài Nam, Đài Loan.

2 – Một trong 4 nhà sử học danh tiếng nhất, từng làm vẻ vang cho nền sử học Việt Nam, ( ông Hà Văn Tấn mà tôi rất kính nể ) đã cùng một giám đốc sở văn hóa địa phương, soạn 1 tập sách lịch sử vài chục trang, bịa ra tròn 100 cung nữ đã nhảy xuống suối tự tử khi theo vua Trần Nhân Tông, về Yên Tử ở Uông Bí tu khổ hạnh – sau 6 năm, vua đã tu ở Ninh Bình. Ông không nghĩ rằng, chính ông đã khai sinh ra các nhóm “Sử thổ phỉ” tràn lan sau này, nghĩa là những học trò của ông và học trò của các học trò của ông – người viết sử, muốn viết thế nào cũng được, miễn là có nhiều tiền. Tôi rất trân trọng ông, đây là lần đầu tiên, tôi nêu tên ông ra đây. Vua Trần vừa đi tu vừa lo việc nước, nên ông ở nhiều thời gian hơn tại am Ngọa Vân Đông Triều, rồi mất ở đây, cách chùa Hoa Yên ở Uông Bí khoảng 40 km về phía Đông, nơi theo phim tư liệu khoa học, hiện còn lưu giữ ở Yên Tử – thi thoảng lại chiếu cho khách xem – một Giáo sư sử học danh tiếng khác, ông Lê Văn Lan, vẫn khẳng định chùa Hoa Yên – Uông Bí mới là nơi vua Trần mất.

Điều sai đó, nay đã khắc phục được rồi. Đông Triều đã tu bổ am Ngọa Vân rất khang trang, xứng với tầm vóc của nhà vua.

Nhưng tròn 100 cô cung nữ chết, thì không ai sửa được cả. Bây giờ đã có 2 quyển sách và HÀNG VẠN quảng cáo ghi số cung nữ đã chết ấy, không phải tròn 100 mà là đã TRÒN 300 cô rồi. Và ngoài các cô đã chết, các cô còn sống, vua lập làng Mụ, làng Nương cho các cô ở, nay các làng đó, thành tên làng du lịch lịch sử ở Yên Tử – Uông Bí. Tôi nghĩ tên các làng này ghi thế cũng cứ được đi, theo ý muốn của dân gian bịa ra mà, nhưng người hướng dẫn du lịch, không nên nói với du khách, các cô cung nữ ấy, đã được vua Trần bố trí cho ở tại đây, đặt tên nơi các cô ở như thế ở đây…

Lại nữa, gần đây, một hãng rượụ phát hiện không phải tròn 100tròn 300 cung nữ chết ở suối Giải Oan khi theo vua đến đây. Vùng đất chôn 300 cô này, mọc lên một loại cây sim lạ, có chất nhựa riêng, được chiết xuất làm một thứ rượu rất đặc sắc để bán cho khách du lịch trong nước và quốc tế. Mới đây lại được biết, hãng rượu này được cấp 300 ha để trồng loại sim đặc biệt đó (có nguồn gốc từng mọc trên mộ 300 cô – mỗi cô 1 ha đất )… Vậy sự bịa đặt, từ truyền thuyết dân gian (mới), đã thành lịch sử, thành đời sống văn hoá và du lịch, thành sản phẩm sản xuất bán kiếm lời – rõ ràng đã vi phạm điều 9 Luật Di sản Văn hóa (mà các vị lãnh đạo đều vui vẻ cho qua) – thành tên hành chính địa phương, khi công ti đứng tên khắc dấu… thi ai sửa được đây… Và cứ thế, nó vận hành trong đời sống du lịch và thương mại… càng ngày càng xa, biết đâu vài mươi năm nữa, cứ theo đà này (nhiều người và cả cơ quan có thẩm quyền ủng hộ), số cung nữ chết, có thể lên đến bao nhiêu, ai mà biết được…

Những sự việc tương tự như thế, ở các địa phươmg, nhiều không kể xiết… và tất cả, đều không được ai quan tâm. Thật đáng sợ. Đây thật sự là một thứ nhiễu loạn. Đừng tưởng cứ nói dối nhiều lần giống nhau, người ta sẽ tin là mình nói thật. Và chỉ một điều hệ trọng, người ta biết rõ là mình đã nói dối, người ta có quyền không tin vào bất cứ cái gì ta có thật và ta đã nói thật. Dù cái có thật đó, thực sự là có thật thật và rất thiêng liêng. Hình như ít ai nghĩ đến điều này vô cùng nguy hiểm là như thế nào… Vì nó làm ruỗng niềm tin của nhân dân. Mà mất niềm tin là mất tất cả. Chúng ta chống lại nhiều thứ có hiệu quả để bảo vệ chính quyền. Vậy điều lớn hơn tất cả này, cũng là để bảo vệ niềm tin của nhân dân đối với chính quyền, sao chúng ta lại để “mặc kệ nó” (makeno) , tạo điều kiện cho nó mọc lên như cỏ mùa xuân…

Do đó, tôi kiến nghị: Quốc hội và Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, giao cho Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch thành lập một CỤC mới là “Cục Bảo vệ lịch sử nội bộ”, tương đương như “Cục Bảo vệ chính trị nội bộ” của Đảng Cộng sản Việt Nam, và tôi thấy việc mới này cấp bách và cần thiết vô cùng, mà tầm quan trọng của nó, khó có thể nói cái nào thì hơn cái nào, đều là cùng bảo vệ những giá trị cao cả và thiêng liêng, một đằng là bảo vệ sự tồn tại của một Đảng cầm quyền và một đằng là bảo vệ sự tồn tại của cả một dân tộc.

( hết bài trích) ./.