Ai đang phất lại con diều cũ Hồn gió còn xanh mộng đất trời Câu thơ như đường link hiện lên chân dung một người thơ Xứ Đoài, nhà thơ Tô Thi Vân. Anh đến với thơ khá sớm. Ngay từ thuở mười tám đôi mươi, những bài thơ xanh đã mở đầu cho hành trình nội tâm trong lặng lẽ đam mê. Những người thợ đồng nghiệp ở Nhà máy Cơ khí Nông nghiệp Hà Tây xưa, vẫn còn nhớ câu chuyện về anh công nhân thợ nguội Tạ Văn Thiệu, tên khai sinh của nhà thơ Tô Thi Vân. Đang làm việc, trong tiếng máy tiếng búa có tứ thơ chợt đến, anh vội mở sổ ghi lại. Nhiều lần như thế, khiến lãnh đạo nhà máy cảnh báo, nếu người công nhân này còn viết lách trong giờ làm việc sẽ bị lập biên bản. Với anh, thơ ra đời như thế. Đó là biên bản của tâm hồn, hay là mạch nguồn cho những áng thơ dâng: Những tiếng rao ùa vào như gió/ Những xót xa chen lấn ngọt ngào/ Tôi lặng lẽ ngồi vào bàn…/ Lặng lẽ… Sinh ra và lớn lên từ thương nhớ cánh đồng, từ miền quê yêu văn chương, trọng tình, trọng chữ nghĩa, anh gắn bó với những người cầm bút quê mình. Với anh, nhà thơ Nguyễn Tấn Việt như người dẫn lối thuở ban đầu của con đường thi ca. Vừa đam mê thơ Nguyễn Bính, vừa yêu thích thơ Thi Hoàng, tâm sự ấy giúp tôi hiểu rõ hơn lý do của những chuyển động và giao thoa trong thơ anh. Trong thơ mình, thi sĩ Nguyễn Bính đã từng nói đến “bệnh tương tư”. Và trong Tự bạch, nhà thơ quê lụa đã tự nhận Tôi người mang bệnh yêu thương. Có thể nói, với hạt nhân là hồn quê, trăng – rượu – sen – thơ và bạn đã làm nên “điệu tâm hồn” và phong vị thơ Tô Thi Vân trầm hậu. Phảng phất màu cổ điển, duy mỹ, nhưng không nệ cổ. Trăng, hoa…, nhưng thơ anh không sa vào nhàm chán của ước lệ. Hoa là hoa của ngày ta đang sống. Còn trăng thì run rẩy, mà rười rượi, ngực trăng vàng yếm đương thì, trăng non lẫy, cỏ vườn non nớt sáng… Trăng soi sáng cả hai bờ kí tự, tân cổ giao duyên. Trong đường thơ của mình, tôi tin rằng, nếu thi sĩ Xứ Đoài chọn những bài viết về trăng, sẽ có một tập trăng thi ấn tượng.
Trong thơ Tô Thi Vân, đằm thắm và đẹp nhất khi trăng hiện lên cùng bạn và thơ, cùng thơ và rượu: Ta chụm chén… nào trăng nào bạn; Trăng đang lội chén mình sang chén bạn. Sóng sánh, rượu quê trong hiện lên điều thầm kín, lại hiện về miền mây trắng trong thơ. Bóng dáng nho phong, nhưng xa lạ với quan phương, thi tửu – Thi Vân, nồng nàn và cốt cách: Chén này hương vị ngày xưa/ Trăm thương ngàn nhớ thời chưa bụi lầm/ Chén này ngời ngợi tri âm/ Người đi kẻ ở ai thầm nhớ thương. Với anh, thơ như một ngôi đền thiêng. Nó không dành cho “phàm phu tục tửu”, không dành cho danh lợi bon chen. Giữa đám đông, anh thường lặng lẽ, nhưng đen trắng phân minh. Trọng thơ như trọng mệnh/ Thích rượu và thuốc lào/ Say bạn bè mắt tròn dấu hỏi; Tôi, kẻ không thích si rô, trà đá. Đó là Tô Thi Vân, một người cầm bút dị ứng với ngọt, nhạt, tác giả của câu thơ ám ảnh: Thuốc lào hút mãi người ra khói/ Thi nhân nghèo sũng nỗi đắng cay (Nhớ Nguyễn Bính). Đời sống nội tâm đầy đặn, tâm thức văn minh lúa nước, không chọn nhân vật thời đại, thơ Tô Thi Vân là của ngõ nhỏ, của ngày thường: chuyện cái kiến, chuyện làng, chuyện mót lúa, chuyện nhà nông, chuyện của nỗi buồn khi phải bán đi con bò già… Nhưng không phải chỉ để kể, tự sự là để trữ tình, để suy tư, suy tưởng. Không sa vào chuộng ý mà quên lời, nhưng anh cũng từng thốt lên: Đến bao giờthơ mới hết véo von/ Lũy tre quê chẳng còn để nghe lời hoa mỹ. Thơ Tô Thi Vân hài hòa cảm xúc và trí tuệ. Sông núi và nhân dân làm nên đất nước. Nhưng núi vẫn thế, bao dung và kiêu hãnh, ngay thẳng và an nhiên, chỉ có màu xanh dẫn đường để đi tới Vô Danh: Núi có chấp gì đâu/ Bão quất tựa mưa bụi/ Thoảng tai sấm sét chào/ Không mũ áo xênh xang/ Không tán tía lọng vàng/ Chuyện ngàn năm núi nhắc, núi nghe.
Gần như cả đời, anh ở quê gắn bó với nguồn cội. Thời bao cấp, anh công nhân thợ nguội đắm đuối với thơ, vẫn đạp xe từ quê ra phố đi làm. Chiều trở về khi hoàng hôn buông xuống, không ít bài thơ ra đời trên con đường thanh vắng thân thuộc ngày xưa. Anh tâm sự, trước khi về nhà, mình thường tạt vào ngồi dưới hàng cây xanh mát bên con mương đầu làng, vừa nghỉ ngơi vừa ghi lại những gì thơ chợt đến. Và dưới màu xanh ấy, thơ cũng trở thành bóng mát của đường xa: Tôiquỳ lạy đồng quê rơm rạ/ Những hạt vàng lấm láp… thơ ơi; Gần đến nhà rồi/Chum nước mưa ngọt ngào lòng mẹ/ Khỏa gáo dừa lướt thướt trăng sao. Chỉ có người thơ chân quê, tinh tế và nặng lòng mới viết được câu thơ như thế. Đó là diễn ngôn của tâm hồn, của sự trở về.
Thơ Tô Thi Vân như bản trường ca về cố hương. Lúc trầm lúc bổng. Khi là bóng, khi là hình. Lo âu và hy vọng… Dẫu có khoảnh khắc chênh chao: Quê mình, mình như khách; Dẫu ấm lạnh khác xưa rồi/ Ta vẫn còn quê. Xưa và nay, nay và xưa, quê trong thời gian đồng hiện. Bài ca về cố hương, âm chủ vẫn là hoài niệm, là kí ức nhớ thương, ẩn ức đồng hành, là chập chờn hy vọng: Những mái rơm chỉ vàng trong kí ức/ Xóm thông tuông đêm ngỏ tuyền toàng; Đêm cổ tích/ Ao làng thức sao trời run rẩy hát/ Đom đóm bay – Đom đóm múa quanh mình; Lối cũ thẫn thờ rạn nứt; Bước chân người in lên bước chân trâu; Cố hương/ Chiếc bình cổ nỗi lo rạn vỡ/… May còn trăng trên đầu. Có nhiều tiếng gọi trong thơ anh: Gọi làng, gọi thu, gọi bạn… Và cũng nhiều tiếng vọng âm vang. Với anh, thơ là ngôi nhà để gìn giữ kí ức, để người thơ trở về. Không gian thơ Tô Thi Vân là không gian của: Hoa mướp vàng, bóng làng, bờ giậu, đồng ruộng, vườn cây, ao chuôm, mây trắng… Trong bức tranh quê, trong cảnh sắc và thế tục, phảng phất tự vấn, ưu tư thấm thía. Không câu nệ vào đề tài, viết về cảnh vật thôn hương lại hiện lên chuyện đời, chuyện thời cuộc, hiện lên cả tình thế của con người và câu chuyện con đường. Nhìn thấy và nhìn thấu, không ít câu thơ được viết bằng nghiệm sinh. Cách viết về thế sự thâm trầm: Những hòn đá mồ côi câm lặng đến bao giờ; Người ngày xưa đang hiện ra trong hội đêm làng/ Những hiền nhân, những giai nhân dại, khôn, thiện, ác/ Đêm quây quần phân giải minh oan; Dáng cha như hạc nội/ Hình mẹ bóng mây ngàn/ Con vô tình… Tội lỗi/ Trước hão huyền chói chang… Điềm tĩnh, không to tiếng, thơ Tô Thi Vân có vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp của sự sâu lắng và tinh tế, chữ nghĩa chân cảm cộng sinh từ đời sống cần lao khuất lấp, lắng nghe và thấu cảm. Say đèn tức là say ánh sáng. Chuyện của những con thiêu thân cứ làm ta day dứt: Cái ngọn đèn – Cái vòm sáng “chết người”/ Đâu phải chốn nô vui. Còn đây là Những bông sen trong đêm: Dường như dưới đáy ao/ Nơi ngó sen trắng ngần yên bình tọa lạc/ Có nỗi âm thầm xót xa.
Tâm thức làng luôn thường trực, ngay trong mảnh vỡ của giấc mơ, thơ anh bay lên cùng ao làng cùng hình bóng thân thương: Chiếc lưỡi câu vô hình cứ giật ta vỡ giấc/ Ao làng bay mây trắng bóng cha. Trong thơ Tô Thi Vân có nhiều liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ: Những đứa trẻ chăn trâu lăn ra trăng ngủ; Làng thắt hờ lưng ong; Trót cầm phải đũa lênh đênh/ Chợ Viềng ơi! Hẹn bồng bềnh phiên sau…Thấp thoáng chữ hay và lạ: Huyền hoa, quái quắc, than thát, lâng châng… Trường từ vựng thôn hương dân dã phong phú, giàu bản sắc miền châu thổ. Tự nhiên và nhuần nhị trong cách dùng. Trên hành trình thơ, tạo ra sự bứt phá là thử thách lớn. Trong chặng sau, thơ Tô Thi Vân có xu hướng thử nghiệm đổi mới trong biểu đạt. Thơ văn xuôi là minh chứng điển hình. Có cả khoảnh khắc thung thăng tung tẩy: Em váy ngắn non tơ khều ốc chấm đêm lành. Thơ anh như có thêm nét mới hiện đại, đương đại: Ngày đang chọn họ tên”; Chớ vội ngủ - Người xưa không ngủ/ Nếp nhăn vầng trán Đường Lâm. Có lần anh tâm sự, mình may mắn có người vợ lặng lẽ lo toan tháo vát. Mỗi lần đến nhà anh, tôi có cảm giác bình yên, tin cậy. Tôi vẫn nhớ câu thơ anh viết khi tiễn con gái vào Huế học đại học: Đường ngàn dặm một mình con dấn bước/ Đêm lặng thầm cha nhẩm.. những sân ga. Trong thơ Tô Thi Vân có không gian thiêng dành cho hiếu đễ: Chén nghiêng thẫn thờ tăm rượu/ Chuyện nào cha cũng “Ngày xưa”…, Nhớ mẹ con lại tìm đến sen. Có một Buổi sáng rưng rưng trong trẻo trong vần thơ kính tặng cha: Cha ơi! Con châm đóm rồi/ Con mời cha hút/ Cha ơi! Đóm trên tay con cuộn cháy/ Mặc ngoài đời gió lay. Tôi đã đọc lại nhiều lần đoạn thơ này. Và lần nào cũng như lần đầu tiên… trong trẻo rưng rưng. Đóm trên tay con cuộn cháy/ Mặc ngoài đời gió lay. Giản dị mà sâu lắng. Đốn ngộ. Khiêm và nhã, duy tình và duy lý, thơ Tô Thi Vân như ngọn gió đồng quê, như Lời cỏ, không xanh cho riêng mình. Trong cái lẽ xanh trong ấy, ta gặp một vườn tâm nơi sương khói. Tháng Mười, 2025