Trang chủ » Truyện

Một chuyện chưởng cười cợt làng văn

Lại Nguyên Ân giới thiệu
Thứ tư ngày 17 tháng 12 năm 2008 12:00 AM
Còn nhớ, vài ba năm trước đây, có một truyện võ hiệp kể về giới mình được làng văn ta truyền nhau đọc. Phải nói, khi nhà văn dùng truyện võ hiệp để nói oiupuug truyện vui, truyện cười diễu; − diễu nhau một cách thân ái thôi, mặc dù vậy, đây cũng thường là dịp để “điểm mặt hảo hán” trong giới mình. Chúng ta nên biết, lối dụng bút võ hiệp này cũng đã được các lớp đàn anh sử dụng. Tôi không định bàn chung về truyện võ hiệp của tác giả Việt Nam, tôi chỉ giới hạn trong đề tài về làng văn của các truyện võ hiệp. Và về mặt này, xin nhắc lại một sáng tác như vậy, xuất hiện trên báo chí Hà Nội hồi giữa những năm 1930. Đó là thiên kiếm hiệp nhan đề Tam động kiếm tiên của tác giả Văn Việt Tử.
       
Tác giả lấy bút danh Văn Việt Tử (chưa rõ là nhà văn nào, có thể người này còn có một bút danh khác là Việt Thi) có vị trí khá đặc biệt đối với tuần báo Bắc Hà thời kỳ do Trần Đình Kim (tức nhà thơ Trần Huyền Trân) quản lý toà soạn. Đó là vì hầu như suốt thời gian này báo liên tục đăng Tam động kiếm tiên của tác giả này, từ số 1 (10/8/1936) đến số 17 (3/12/1936), chỉ ngừng lại cách 2 số trước khi toà soạn này chấm dứt công việc. Tam động kiếm tiên được gọi với một phụ đề là “chuyện kiếm tiên không tiền khoáng hậu”. Chữ “kiếm tiên” hầu như lộ ngay ngụ ý “kiếm tiền”, kiếm sống! Giới viết văn làm báo được trình bày như những hiệp khách “kiếm tiên” (= kiếm tiền, kiếm sống).

Toàn bộ thiên kiếm hiệp này là một liên hoàn đùa cợt cuộc tranh đua giữa 3 nhóm văn chương báo chí có thanh thế ở Hà thành đương thời những năm 1930: nhóm Hà Nội báo, nhóm Tự Lực, nhóm Tân Dân. Tác giả đem võ thuật hoá và tiểu thuyết hoá các cuộc giao tranh trong giới này, mô tả cuộc đụng độ giữa các tay “kiếm tiên” của “động Hồng Kê” với  “động Phong Hoả”, và về sau, giữa “động Phong Hoả” với “động Tản Dân”; cạnh đó có “động Bình Dân”, − ý chỉ chính nhóm đang quần tụ quanh tờ Bắc Hà này, tất nhiên chỉ như những kiếm khách ở bên lề cuộc tranh hùng giữa ba nhóm kia.

Động Hồng Kê (ý nói phe Hà Nội báo của ông chủ hiệu Hồng Khê) với Lề Cang chân nhân, Đoản Kiều nguyên suý, tướng tiên phong là Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong, rồi quân sư Lưu Trọn Lừa, cùng các tướng Tái Can tiên, Vi Lang tiên, Bất Thông tiên …(ý ám chỉ ông Lê Cường, chủ hiệu thuốc Hồng Khê và nhà in Lê Cường; chủ bút Lê Tràng Kiều, các nhà văn Vũ Trọng Phụng, Lưu Trọng Lư, Thái Can, Huy Thông).

Động Phong Hoả (ý nói phe Tự Lực văn đoàn với tuần báo Phong hoá) với chủ tướng Nguyễn Tề Tam, quân sư Tứ Tử Ly, và các tướng như Khái Huyết tiên, Lê La tiên, Thạch Lâm tiên, Tù Mờ tiên (ý nói Nhất Linh tức Nguyễn Tường Tam, các nhà văn Tứ Ly tức Hoàng Đạo, Lê Ta tức Thế Lữ, Khái Hưng, Thạch Lam, Tú Mỡ).

Động Tản Dân (ý nói nhà sách Tân Dân) với động chủ Võ Đình Luông, các tướng Nghiêm Hà Lạm quỷ tiên, Nguyễn Đỗ Nát quái hiệp (ý nói chủ nhân Vũ Đình Long, nhà văn Nguyễn Đỗ Mục, chủ nhà in Nghiêm Hàm…).

Vào truyện, phái động Hồng Kê khởi đánh động Phong Hoả, nhưng rồi cục diện thay đổi, phe Hồng Kê bị thua to, tướng Võ Trúng Phong phải đến nương nhờ động Tản Dân. Câu chuyện tiếp diễn với những tình tiết thêu dệt lý thú, ví dụ cuộc tuyển chọn nhân tài của động Phong Hoả với sự xuất hiện và trổ tài của những kiếm tiên như Nguyên Vý Y,”người ở động Khâm Thiên, trước có 12 chân sau bị Khái Huyết tiên cưa mất 10 còn 2”, hoặc Hoãng Huỳ tiên, nguyên “bán thịt chó chết ở xứ Đông Pháp”, rồi Trương Tỷu tiên, “cháu 70 đời Trương Phi, anh em kết nghĩa của Nguyên Vý Y”, v.v…

Một hệ nhân vật nữa, được thêu dệt từ thế giới nhân vật của các nhà văn, chẳng hạn Thị Mịch tiên cô, vợ giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong, có bảo bối là chiếc xiêm “đã luyện hàng trăm lần với các tiên ông”, trở thành vũ khí đáng sợ, có thể chụp lên đầu để khuất phục đối thủ; khi Võ Trúng Phong đưa bảo bối ấy ra, Thạch Lâm tiên co cẳng chạy biến, mặc dù trước đó Thạch Lâm tiên từng có lần ném hòn đá xanh trúng mặt Võ Trúng Phong khiến tay hảo hớn này ngã ngất (chi tiết này phải chăng ghi việc bài “Dâm hay không dâm” công kích Vũ Trọng Phụng đăng báo Ngày nay ký Nhất Chi Mai là do Thạch Lam viết?). Bên động Phong Hoả có Ba Vành nương nương, con gái Lý Toét lão tổ, sắc đẹp làm mê hồn động chủ Nguyễn Tề Tam; Lê La tiên có lần ngắm trộm Ba Vành nương nương, bị Tù Mờ tiên bắt gặp, Lê La tiên bèn đưa kẹo tạc đạn ra hối lộ, Tù Mờ tiên vội nhai liền bị kẹo đạn nổ gãy răng!

 Ngoài việc gián tiếp xác nhận sự đụng chạm cả về văn chương lẫn kinh tế giữa mấy trung tâm văn chương báo chí ở Hà Nội đương thời, người ta thấy khá nhiều tình tiết tập trung vào tác phẩm Giông tố của Vũ Trọng Phụng, lúc ấy đang được đăng tải lần đầu trên Hà Nội báo. Những chuyện mà thiên kiếm hiệp này thể hiện, ví dụ biến từ “nghị Hách” thành động từ (để chỉ sự hiếp dâm!), hoặc chiếc xiêm bảo bối của nữ hiệp Thị Mịch, và nhiều tình tiết khác nữa, chứng tỏ ngay lúc ấy Giông tố đã có tiếng vang rất lớn trong dư luận công chúng và ngay trong giới nhà văn; hình dung hiệp sĩ Võ Trúng Phong ở đây có vẻ quá “ngầu”, cũng chỉ tỏ rõ rằng văn chương phóng sự và tiểu thuyết của tác gia này khi ấy đang gây ảnh hưởng mạnh trong công chúng, kể cả tác giả thiên kiếm hiệp này.
 
Thiên kiếm hiệp Tam động kiếm tiên dừng lại vì Văn Việt Tử ngừng cộng tác với Bắc Hà, tác giả Quang Mai viết nốt kỳ chót cho truyện này, và sau đó Bắc Hà của ê-kíp Trần Đình Kim chỉ ra thêm được 1 số nữa rồi ngừng hẳn; tờ Bắc Hà lại được chuyển cho một nhóm khác.
Sau đó, vào đầu năm 1938, tác giả Văn Việt Tử lại trở lại cộng tác với toà soạn Bắc Hà, lại cho đăng tải thiên kiếm hiệp Ngũ ba hoa hiệp khách, có phụ đề Chuyện võ hiệp để diễu, bắt đầu bằng việc giới thiệu động Tản Dân, bên cạnh Võ Đình Luông thấy xuất hiện thêm Lê Văn Phì, em vợ chủ động Tản Dân, được giao chủ trì một động mới: “Vô ích hữu”; cuộc hội ngộ giữa Trương Tuý Tửu với Nguyên Vý Y và Lê Văn Phì là những sự việc khởi đầu thiên võ hiệp mới này, tức là tác giả vẫn kể tiếp từ đoạn bỏ dở của Tam động kiếm tiên. Tiếc rằng tuần báo Bắc Hà khi đó chỉ ra được 3 kỳ rồi ngừng hẳn; thiên Ngũ ba hoa hiệp khách kể chuyện đấu võ giữa các nhà văn đương thời cũng ngừng lại mãi mãi từ đấy.

Giới thiệu lại thiên kiếm hiệp nói riêng về giới viết văn làm báo này, tôi không nghĩ vì nó xuất sắc, song chỉ vì nó có nhiều điều thú vị, và cũng vì nó đã bị quên lãng hẳn đến nỗi những bậc đàn anh mà chúng ta quen biết hình như chưa bao giờ kể với chúng ta loại sự việc này trong làng văn thời trước, − loại sự việc thú vị, và cũng nên đưa lại cho bạn đọc yêu văn chương thưởng lãm, để họ biết thêm một phương diện nữa của làng báo làng văn người Việt xưa nay. Trong làng văn với nhau cần có sự trọng thị đối với tài năng đức độ trong thực chất, song cũng cần sự giễu nhại cười cợt, không phải chỉ là để phê bình nhẹ nhàng nếu cần, mà cái cần hơn là đừng để không khí chung lâm vào kiểu suy tôn công kênh nhau một chiều, sự kính trọng kiểu cách giả dối tẻ nhạt.
Tôi giới thiệu lại thiên kiếm hiệp làng văn này là vì mấy lẽ ấy.

                                                                                                    LẠI NGUYÊN ÂN

Văn Việt Tử
TAM ĐỘNG KIẾM TIÊN
chuyện kiếm tiên không tiền khoáng hậu

Hồi thứ I
Lề Cang Chân nhân vào Hồng Kê động luyện đan,
Đoản Kiều tiên ông đến Hà Thành báo bái tướng

Trời có khi nắng khi mưa, việc trong thiên hạ cũng lúc suy lúc thịnh, đó là cái định luật thiêng liêng của tạo hoá vậy.
Cũng như trong làng báo có khi yên khi loạn, loạn chán rồi yên, yên lâu lại loạn, đó là lẽ đương nhiên của nhà nghề, dù các văn sĩ có rủ nhau chui vào bị cũng không tránh khỏi cái vòng lẩn quẩn ấy vậy.
Chuyện này nói về đời vua Bảo Đại nước Việt Nam, năm Bính Tý (tây lịch 1936), tại thành phố Hà Nội thuộc xứ Bắc Kỳ, có một vị chân nhân họ Lề tên Cang tự là Hồng Kê Chân nhân, tu từ đời kiếp nào và đã đắc đạo hay chưa thì không ai biết. Một độ thấy bệnh lậu càng ngày càng bành trướng, mà vi trùng bệnh ấy bay vù vù khắp thành phố, thì động lòng xót giống thương nòi muốn vì dân trừ hại, bèn đeo bầu quẩy níp, vân du khắp mọi nơi tìm các thứ cây quí mang về chế tạo linh đan, cứu dân độ thế.

Lang thang hết trại Bách Thảo đến vườn hoa Bôn Be trong mấy ngày trời, miệng nếm đã nhiều thứ cây lạ nhưng cũng không thứ nào chữa được bệnh một cách thần hiệu, Lề Cang Chân nhân chán nản, đi thất thểu về phía Chợ Ngày, một lúc bỗng trông thấy một trái núi cao ngất, Chân nhân bèn vỗ đùi đánh đét một cái mà reo to lên rằng: “Phúc thay cho dân Nam Việt! Phúc thay cho dân Nam Việt! Hỡi vi trùng bệnh lậu! Phen này mi có chạy đằng trời”.
Nói xong, Châu nhân sắn quần móng lợn chạy thẳng một mạch đến nơi, thấy trái núi cao ngất nghểu, đá đỏ như tô son, đứng vững chãi ở cả một góc Chợ Ngày, thì lấy làm khoái trí, nhân lúc cao hứng có ngâm mấy câu rằng:
Ồ! Cái núi gì mới lạ thay!
Ô tô phía trước chạy  như bay,
Tiếng còi inh ỏi toe toe … toét,
Xúc cảm làm bài thơ thiệt hay.

Ngâm xong, Lề Cang Chân nhân lại vỗ vào đùi đánh đét một cái mà khen:
− Tuyệt! Tuyệt! Tuyệt bằng mười bài thơ con cóc.
Nhưng vì thích chí quá, nên Chân nhân đã tự vỗ vào đùi mình một cái quá mạnh, đau điếng người, xuýt xoa và cố lê đi quanh trái núi, đến một cái động, đứng cửa nhòm vào, bỗng Chân nhân cười ha hả một mình rồi nói rằng:
− Phú quý cũng ở nơi này! Danh giá cũng ở nơi này!
Nói xong, Lề Cang Chân nhân chui tọt vào động biến mất. 

Từ ngày Lề Cang Chân nhân vào động luyện đan, chế ra một thứ thuốc lậu, chẳng biết có hay ho gì không, nhưng thu lợi của thiên hạ không biết bao nhiêu mà kể. Một hôm ngồi buồn, Chân nhân nghĩ thầm: “Ta nay trời cho đã có của ăn của để thì tội gì để tiền mốc trong két mà chẳng bỏ ra làm việc. Chi bằng mở luôn tờ báo để tu cho thành chính quả, ta cũng vì đấy mà nên danh nên giá, có khi làm lớn cũng chưa biết chừng”.

Thế là mộng làm báo Lề Cang Chân nhân có từ đấy.
Sau mấy tháng cậy thầy cậy thợ, mọi việc đã xong xuôi, Chân nhân bèn yết bảng câu hiền.

Bảng văn vừa yết, thì một hôm có tên tiểu đồng vào báo rằng:
− Bẩm sư phụ, bên ngoài có một người xưng là Đoản Kiều xin vào yết kiến.

Lề Cang Chân nhân vội ra tận cửa đón tiếp, thấy người ấy hình dung kỳ quái, mắt xanh tóc đỏ, giữa có sừng (xin nhớ cho là một sừng) răng nanh chìa ra ngoài, người cao một trượng, lưng lớn tày ôm thì cả mừng, vội vã mời vào. Sau khi phân ngôi chủ khách, Lề Cang Chân nhân hỏi:
− Chẳng hay tiên trưởng ở nơi nào rời gót ngọc đến chơi tệ động?

Người ấy cất tiếng oang oang như lênh vỡ, nói rằng:
− Bần đạo họ Đoản tên Kiều, ở phía nam Cội Sơn, nay nghe tin Chân nhân yết bảng cầu hiền, vội đến yết kiến, mong Chân nhân thu dụng.
Lề Cang Chân nhân hớn hở nói:
− Thật là đại hồng phúc cho bỉ nhân! Nhưng chẳng hay tiên trưởng có những tài cán gì?
Đoản Kiều tiên ông cười ha hả, nói:
− Ngoài thập bát ban võ nghệ, bần đạo tài có thể hô phong hoán vũ, mà sức thì hay cử đỉnh bạt sơn. Tiện đây bần đạo xin thử một phép mọn để Chân nhân coi.
Nói xong, Đoản Kiều tiên ông đứng dậy nhổ một cái lông mũi, mồm lẩm bẩm mấy câu thần chú, thổi phù một cái rồi quát to lên một tiếng “Biến”, tức thì trước cửa động Hồng Kê, núi đá cao ngất nghểu bỗng biến thành biển thẳm, sóng gọn trập trùng, trên mặt biển có chiếc cầu dài muôn trượng, toả hào quang ra khắp mặt nước. Lề Cang Chân nhân khen giỏi không ngớt miệng. Đoản Kiều tiên ông gật gù nói:
− Chiếc cầu này là bản tướng của bần đạo, bần đạo đã tử công phu mới luyện được nên, lợi hại không biết thế nào mà nói, lúc tung lên giời có muôn đạo hào quang chiếu xuống, cho dẫu vị tiên nào tu hàng mười nghìn năm mà bị cầu ấy đánh phải cũng chết không kịp ngáp.
Lề Cang Chân nhân rụt cổ lè lưỡi mà rằng:
− Nếu vậy xin tiên trưởng thu ngay phép lại, kẻo lỡ ra va phải đầu bỉ nhân thì khốn.
Đoản Kiều tiên ông bèn giơ tay lên vẫy một cái, tức thì chiếc cầu ấy thu nhỏ dần rồi “bay” vào trong lỗ mũi, mà biển thẳm cũng đã biến đâu mất. Lề Cang Chân nhân thấy vậy đứng lên cầm tay Đoản Kiều tiên ông dựt mạnh mấy cái, mà nói rằng:
− Bỉ nhân được tiên trưởng đến giúp thật là vạn hạnh, vạn hạnh. Còn các tướng lĩnh không biết tiên trưởng đã chọn ai chưa?
Đoản Kiều tiên ông nói:
− Xin Chân nhân chớ lo, bần đạo đã có đủ cả, nay hãy tạm kể mấy tướng lĩnh đắc lực như: Lưu Trọn Lừa tiên ông, người tuy gầy như que củi, nhưng có bài thần chú “Ba la sầu” đọc lên làm bên địch phải hắt hơi ngủ gật; giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong thường đội mũ nồi đứng ở đầu máy nước, quen sử một chiếc đòn gánh bằng trúc có bảy gióng, mỗi khi múa lên nghìn người không địch nổi; Vi Lang tướng quân, lúc nào dạ buồn lại thổi tiếng vi vu thì quân địch phải vội vàng bịt chặt lấy tai, nếu không sẽ điếc đặc; Tái Can tiểu tiên, quen sử một chiếc ba-toong của vị tiên ông da đen gác cổng ban cho, mỗi khi múa lên khiến quân địch phải buồn cười lăn ra mà chết. Còn nhiều vị tài giỏi nữa không thể kể xiết, bần đạo sẽ dẫn đến ra mắt Chân nhân sau.

Lề Cang Chân nhân nói:
− Bỉ nhân đã bấm độn ngày mai là ngày hoàng đạo, muốn đắp đàn bái tiên trưởng làm soái, xin tiên trưởng vui lòng nhận cho.
Đoản Kiều tiên ông nói:
− Bần đạo xin tuân lời Chân nhân dạy bảo.

Sáng sớm hôm sau, Lề Cang Chân nhân đốc thúc sĩ tốt đắp một cái đàn cao tấc rưỡi ngay trong chợ, bốn bề cờ giấy bay phất phới, có cả voi giấy, ngựa giấy, súng thần công và thuyền rồng cũng bằng giấy, vì Lề Cang Chân nhân định rằng vừa làm lễ bái tướng vừa cúng quan ôn luôn thể.

Sau khi các tướng lĩnh đã có đủ mặt trước đàn, Lề Cang Chân nhân tay bưng hòm ấn và một thanh kiếm gỗ, từ dưới đàn tiến lên rồi ngoảnh lại dõng dạc nói với các tướng:
− Nhờ ơn trời phật run rủi cho bỉ nhân được gặp tiên trưởng đây, nay bỉ nhân lập đàn bái tiên trưởng làm soái. Vậy từ rày bất cứ mọi việc to nhỏ trong động đều do hiệu lệnh của tiên trưởng phát lạc, các tướng chớ khá trái lời.

Rồi quay lại vẫy Đoản Kiều tiên ông lên mà nói:
− Xin Tiên trưởng chớ phụ lòng uỷ thác của bỉ nhân.
Nói xong Lề Cang Chân nhân nâng ấn và kiếm lên ngang mặt, Đoản Kiều tiên ông kính cẩn đỡ lấy, khẽ nghiêng đầu cảm tạ và mời Lề Cang Chân nhân ngồi rồi cầm chiếc nậm gỗ để trên bàn đập xuống đánh chát một cái, mồm nói:
− Chư tướng an toạ!
Các tướng bấy giờ chừng như đang ngủ gật, nghe tiếng nện xuống bàn, đều vòng tay nói:
− Thập tuế!
Rồi ngồi xếp bằng bằng cả xuống đất. Nong cháo cũng vừa cúng xong, một tên quân mang đặt ở giữa, rồi cùng nhau yến ẩm và chuyện trò rất vui vẻ.
Đang lúc Lề Cang Chân nhân cùng Đoản Kiều nguyên soái và các tướng lĩnh “chiến” những bắp ngô luộc, củ khoai lang, cái bánh đa, viên kẹo vừng một cách ngon lành, thì bỗng nhiên có một tên quân phi xe đạp xông đến tận nơi, suýt nữa đâm cả vào nong tiệc, hốt hoảng báo:
− Bẩm Nguyên soái, có Phong Hoả động cử đại hùng binh đến lấn biên thuỳ, xin Nguyên soái định liệu.
Lề Cang Chân nhân nghe báo, tay đang cầm chiếc ngô luộc sợ quá đánh rơi xuống đất lúc nào không biết. Đoản Kiều Nguyên soái thấy vậy, thì an ủi rằng…
Muốn biết Đoản Kiều Nguyên soái an ủi ra sao xin xem hồi sau phân giải.
Rõ thật là:
Nhát đến Lề Cang đời có một,
Tợn như Phong Hoả thật không hai.
Người ta lại có thơ khen Đoản Kiều Nguyên soái rằng:
Anh hùng như thế! ai bì
Giúp thịnh nhưng mà chẳng giúp suy…
Những kẻ làm loạn trong trên giới
Ngọc Hoàng không trị, ông trị đi.

 

Hồi thứ II
Phong Hoả động mang binh đánh Hồng Kê động
Thạch Lâm tiên trúng kế Đoản Kiều tiên.

Nói về Lề Cang Chân nhân nghe tin động Phong Hoả mang binh đến đánh thì cả sợ, tay đang cầm chiếc ngô luộc đánh rơi xuống đất lúc nào không biết. Đoản Kiều Nguyên soái an ủi rằng:
− Xin Chân nhân chớ lo, những kẻ làm loạn trong làng kiếm hiệp, Ngọc Hoàng không trị đã có chúng tôi trị.
Lề Cang Chân nhân nói:
−  Trăm sự đều nhờ ở tiên trưởng, trong lòng bỉ nhân hiện nay bối rối lắm, không biết xử trí ra sao.
Đoản Kiều Nguyên soái truyền quân triệt bỏ nong tiệc, rồi kiểm điểm sĩ tốt, kéo quân ra thành Chợ Gạo cắm trại.

Chiều hôm ấy Lề Cang Chân nhân và Đoản Kiều Nguyên soái đang ngồi bàn bạc trong trướng thì bỗng có thám tử về báo rằng: “Quân động Phong Hoả đã kéo đến gầm cầu sông Cái và sắp sửa hạ trại”. Đoản Kiều Nguyên soái nghe báo liền rút một cây lịnh tiễn, gọi Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong lên dặn rằng:
− Tướng quân dẫn bộ hạ đi trước mở đường, nếu có gặp địch quân cũng không được giao chiến vội, đợi bao giờ đại quân của bản soái kéo đến sẽ hay.
Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong lĩnh mệnh lui ra.
Đoản Kiều Nguyên soái lại gọi Tái Can tiên lên truyền rằng:
− Tiên ông dẫn bộ hạ nấp dưới bờ đê về hữu ngạn sông Nhị Hà, khi nào nghe tiếng pháo nổ, phải kéo ra chặn lối không cho quân địch quay trở lại.

Tái Can tiên lĩnh mệnh lui ra.
Đoản Kiều Nguyên soái gọi đến Vi Lang tiên lên truyền rằng:
− Khi hai bên giao chiến mà quân ta núng thế, thì tiên ông phải lập tức thổi tiếng vi vu tận trong dạ giày ra, cho quân địch bỏ khí giới bịt chặt lấy tai, lúc ấy ta tha hồ mà đánh.
Vi Lang tiên vâng lệnh lui xuống.
Đoản Kiều Nguyên soái quay lại nói với quân sư Lưu Trọn Lừa rằng:
− Khi quân địch đã thua chạy, quân sư nên đọc thần chú “Ba la sầu” lên cho quân địch buồn ngủ gục xuống đường, để quân mai phục bên bờ đê ùa ra bắt sống lấy.
Quân sư Lưu Trọn Lừa cúi đầu tuân lệnh.
Cắt đặt mọi công việc xong xuôi, Đoản Kiều Nguyên soái cùng Lề Cang Chân nhân nhổ trại và đốc xuất bộ hạ kéo đi.
Đó thật là:
Đoản Kiều Nguyên soái tài hơn chúng,
Lề Cang Chân nhân mắt có ngươi.
Nói về đại binh của Đoản Kiều Nguyên soái đi chẳng bao lâu đã gần đến gậm cầu, cách thành của Phong Hoả 20 dặm hạ trại. Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong lên trướng bẩm rằng:
− Từ nãy quân địch lại đây khiêu chiến đến tám mươi nhăm lượt, nhưng chưa có lệnh Nguyên soái, nên tiểu tướng chưa dám tự tiện xuất quân.
Đoản Kiều Nguyên soái hỏi:
− Tướng quân có biết tướng bên thành Phong Hoả đem quân lại khiêu chiến tên là gì không?
Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong bẩm:
− Bẩm Nguyên soái, tướng ấy họ Thạch tên Lâm, quen xử một cây bát xà mâu và có thuật ném đá rất giỏi, trăm hòn không sai một, nên có hiệu là “Tẩu Thạch Lâm tiên”.
Đoản Kiều Nguyên soái nghe nói thì gật đầu, truyền lệnh mở cửa thành kéo quân ra trận. Ngay lúc ấy bên thành Phong Hoả cũng có ba tiếng pháo nổ, một đại đội binh mã tự trong thành kéo ra. Khi hai bên đã gần nhau, Đoản Kiều Nguyên soái thấy viên chủ tướng trại Phong Hoả là Nguyễn Tề Tam, đầu đội mũ Thổ công bằng giấy, mình mặc áo tơi, lưng đeo ngọc đái, tay cầm một chiếc búa tầm sét, tả có Khái Huyết, hữu có Lê La, trước mặt là tướng Thạch Lâm ngồi trên lưng hổ, hai mắt trợn ngược như người ngộ cảm, cầm ngang ngọn bát sà mâu, lăm lăm như định đâm ai, đằng sau có quân sư Tứ Tử Ly cầm chiếc phất trần bằng lông vịt khua luôn không ngớt.
Hai bên đều dàn thành thế trận, chủ tướng động Phong Hoả thúc ngựa tiến lên trước, cầm búa tầm sét trỏ mặt Lề Cang Chân nhân mắng lớn lên rằng:
− Bớ lang lậu! Nhà ngươi học thức không đầy nửa nhúm, cũng đòi dở chữ để loè ai? Nay ta mang quân đến đây hỏi tội, nhà ngươi muốn sống xuống ngựa qui hàng, kẻo khi quân ta đã phá vỡ thành trì, bấy giờ ngọc đá ra tro, hối không kịp nữa.
Nguyên soái Đoản Kiều cả giận cũng mắng lại:
− Ủa! Ủa! Đồ vu cáo hèn! Sao ngươi dám đặt điều vu khống, chê Chân nhân ta dốt đặc cán mai? Nhà ngươi chỉ là đồ giả danh đạo đức để đánh lừa thiên hạ. Nay đại binh của bản soái đã kéo đến đây thì lũ ngươi khó lòng tránh khỏi cái chết!
Nói xong Đoản Kiều Nguyên soái quay lại hỏi:
− Ai ra bắt lấy cho ta?
Hỏi vừa dứt lời, sau lưng bỗng có tướng quát to lên một tiếng phi ngựa xông ra, mọi người ngẩng nhìn thì là Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong. Võ Trúng Phong tay cầm đòn gánh nhằm đầu chủ tướng Nguyễn Tề Tam phang xuống. Thạch Lâm tiên vội giơ bát sà mâu lên đón đỡ. Hai người đánh nhau hơn năm mươi hiệp vẫn không phân thắng bại. Đang lúc đánh nhau hăng, Thạch Lâm tiên nhanh tay lần trong cạp quần ra một viên đá sắc xanh, nhằm giữa mặt Võ Trúng Phong ném lại. Võ Trúng Phong vô ý, bị ngay hòn đá ném trúng giữa mặt, hộc máu mồm sùi máu mũi, phải bỏ chạy về bản trận. Thạch Lâm tiên giục hổ đuổi theo. Trong lúc nguy cấp thì bên này trận, Đoản Kiều Nguyên soái đã sai Lưỡng nhỡn kính Bất Thông tiên chạy ra tiếp cứu. Nhưng Bất Thông tiên không phải là địch thủ của Thạch Lâm tiên, nên vừa giao phong có mấy hiệp, mà mồ hôi đã ướt đầm cả áo. Nguyên soái Đoản Kiều bèn sai đánh thanh la thu binh bỏ chạy. Thạch Lâm tiên cố sức thúc hổ đuổi theo; khi đuổi gần kịp, Vi Lang tiên bèn há mồm thổi lên những tiếng vi vu, quả nhiên quân của Thạch Lâm tiên đều buông khí giới mà bịt chặt lấy tai, quân sư Lưu Trọn Lừa cũng há hốc mồm đọc: “Úm ba la mà na mà ni ca la sầu!”. Quân sư Lưu Trọn Lừa vừa đọc dứt miệng thì lạ thay! quân của Thạch Lâm tiên đang tỉnh táo, tự nhiên hai mắt lim dim như buồn ngủ, rồi đều ngã vụt xuống đường, chỉ riêng có Thạch Lâm tiên vì đã tu luyện lâu năm nên không bị. Nhưng vừa toan quay chạy trở lại, bỗng có một tiếng pháo nổ, quân phục ở vệ đê sông Nhị Hà do Tái Can tiên chỉ huy đổ ra như kiến cỏ, Tái Can vừa toan xông lại đánh, đã bị ngay một viên đá xanh ném trúng giữa mặt, máu chảy ra lênh  láng Thạch Lâm tiên đắc trí, cười ha hả mà rằng:
− Tái Can! Nhà ngươi đã biết bảo bối của ta chưa?
Tái Can tiên nghe nói tức giận vô cùng, quát to lên rằng:
− Hỡi Thạch Lâm tiển tử! Mi chớ vội khoe tài, hãy mở mắt trông ta.
Nói xong Tái Can tiên cầm ba toong múa tít một hồi, Thạch Lâm tiên bỗng nhiên cười nấc lên, đánh rơi cả bát xà mâu. Con hổ của Thạch Lâm tiên đang cưỡi, như cũng buồn cười về lối múa ba toong của Tái Can tiên, gầm lên mấy tiếng. Tái Can tiên mừng rỡ định xông lại kết liễu tính mệnh của Thạch Lâm tiên, thì may thay! ngay lúc ấy Lê La tiên vừa đem quân tiếp ứng đến nơi, vội tung quả bóng bằng cao su lên trên không, và quát một tiếng “Mau”, tức thì quả bóng rơi xuống đầu Tái Can tiên đánh bình một cái. Tái Can tiên đau lặng người đi, cắm đầu chạy mất.
Lê La tiên vẫy tay thu quả bóng về, trông lại thấy Thạch Lâm tiên vẫn đứng cười một mình, hỏi không nói, gọi không thưa. Lê La tiên rất lấy làm lạ, sau đành phải cắp Thạch Lâm tiên vào nách mang về bản trận.

Về đến nơi, Thạch Lâm tiên vẫn cười không dứt tiếng. Quân sư Tứ Tử Ly bèn giơ tay lên bấm độn, rồi cả sợ, nói với chủ tướng Nguyễn Tề Tam rằng:
− Hỏng to! Hỏng to! Thạch Lâm tiên trúng kế của Đoản Kiều mất rồi! Nguyên cái ba toong ấy là của một vị Thiết-bà-ha-ả-ra bên Tây Trúc trao cho đồ đệ là Tái Can, cái ba toong ấy có phép thần thông mầu nhiệm, mỗi khi múa lên thì người nào trông thấy phải buồn cười mà chết. Nay chỉ có thuốc số 30 của Lề Cang Chân nhân mang về cho Thạch Lâm tiên uống mới hòng chữa khỏi. Nhưng biết tìm cách nào mà lấy được bây giờ?

Mọi người đều nhìn nhau thở dài, ngoài sân Thạch Lâm tiên vẫn đứng cười khanh khách. Khái Huyết tiên thấy vậy không đành lòng bèn nói với chủ tướng Nguyên Tề Tam và quân sư Tứ Tử Ly rằng:
− Đêm nay xin chủ tướng và quân sư cho phép tiểu tiên lén đến trại giặc lấy trộm thuốc ấy về chữa cho Thạch tướng quân.
Quân sư Tứ Tử Ly lắc đầu mà rằng:
− Khó lắm! Khó lắm! Thứ thuốc ấy Lề Cang coi là của gia bảo, giữ gìn rất cẩn thận thì khó lòng mà lấy nổi. Nay tiên ông đã muốn đi tôi cũng không dám cản, nhưng cần phải cẩn thận lắm mới được, vì Đoản Kiều là tay thao lược đại tài chứ chẳng phải vừa, lỡ ra thuốc không lấy được lại bị mắc bẫy thì khốn.
Khái Huyết tiên thưa rằng:
− Xin quân sư chớ sợ, tiểu tiên sẽ hết sức đề phòng.
Muốn biết Khái Huyết tiên có lấy trộm được thuốc không, xin xem hồi sau phân giải.
Đó thật là:
Vác chiếc ba toong lên múa tít,
Thạch Lâm cười ngất mãi không thôi.
Người ta có thơ vịnh rằng:
Đi ăn trộm thuốc số ba mươi,
Về chữa Thạch Lâm khỏi bệnh cười;
Lối múa ba toong sao tuyệt giỏi,
Trần gian đã dễ có bao người?


Hồi thứ III
Trộm thuốc tiên Khái Huyết trúng tên,
Vì lỡ cơ Đoản Kiều bại trận.
Lại nói về đêm ấy ánh trăng vằng vặc, sao mọc đầy giời, Khái Huyết tiên từ giã chủ tướng Nguyễn Tề Tam và quân sư Tứ Tử Ly rồi quay ba vòng hoá làm hồn bướm nhắm trại Hồng Kê thẳng tiến.
Khi đến nơi thấy bốn bề im phăng phắc, Khái Huyết tiên nhảy tót lên mái nhà, chuyền hết nóc nọ đến nóc kia, không hiểu Lề Cang Chân nhân ngủ ở gian nào, còn đang ngơ ngác thì nghe có tiếng bánh xe tán thuốc quay xè xè, Khái Huyết tiên nhằm chỗ ấy đi đến. Tới nơi đứng ngoài nhìn vào lỗ hổng, thấy bên trong Lề Cang Chân nhân vẫn còn thức, ngồi trên chiếc ghế da báo, hai chân dạng ra tán thuốc, mắt lim dim như người ngủ gật, mà lọ thuốc số 30 thì đeo ở cổ. Khái Huyết tiên nghĩ bụng: “Nếu không tìm cách lấy ngay, lỡ quân đi tuần trông thấy thì nguy”. Nghĩ vậy bèn thò vào túi lấy ra một nắm mê hồn hương châm lên và khẽ thổi cho khói bay vào. Lề Cang Chân nhân đang ngồi tán thuốc bỗng hắt hơi lên mấy tiếng gục xuống bàn. Khái Huyết tiên cả mừng, khoét ngạch chui vào, rón rén lại gần Lề Cang Chân nhân tháo lấy lọ thuốc. Xong đâu đấy lại do lỗ ngạch chui ra, nhưng chẳng may vừa chui ra khỏi, thì mấy tên quân đi tuần qua đấy trông thấy, vội khua thanh la ầm ỹ và kêu to lên:
− Có thích khách! Có thích khách!
Khái Huyết tiên giắt lọ thuốc vào người định quay đi ba vòng hoá làm hồn bướm chạy trốn, nhưng chưa kịp trở mình thì bốn bề quân lính đã đổ đến bạt ngàn, đèn đuốc như sao sa, gươm giáo tua tủa. Khái Huyết tiên hoảng sợ, há mồm nhả ra một đạo hồng quang bay đến chém những tên quân vây bọc để cướp đường trốn chạy.
Ngay lúc ấy Đoản Kiều Nguyên soái đang nằm trong trướng, nghe bên ngoài có tiếng kêu thích khách, sực thức dậy vội đốc thúc các tướng tá đổ đến vây chặt lấy Khái Huyết tiên. Quân sư Lưu Trọn Lừa há mồm phun ra một đạo bạch quang; Vi Lang tiên cũng phun ra một đạo thanh quang. Ba đạo kiếm quang cứ quấn lấy nhau ở trên không như ba luồng điện. Đoản Kiều Nguyên soái tức giận, đang lúc bất ý, rút một chiếc tên thần thổi thẳng vào mặt Khái Huyết tiên, Khái Huyết tiên bị chiếc tên ấy bắn trúng giữa mắt phải, đau quá, thét to lên một tiếng, vội thu đạo kiếm quang về, độn thổ chạy về dinh. Khái Huyết tiên đã trốn chạy rồi, Đoản Kiều Nguyên soái bèn kiểm điểm lại sĩ tốt thấy không thiếu một tên nào thì cả mừng, rồi đưa các tướng sĩ vào đại trại thăm Lề Cang Chân nhân. Vào đến nơi thấy Lề Cang Chân nhân vẫn gục xuống bàn mê man bất tỉnh. Đoản Kiều Nguyên soái sai hoà thứ thuốc số 14 tắm cho Lề Cang Chân nhân. Một lúc lâu Lề Cang Chân nhân dần dần tỉnh lại, trông thấy các tướng xúm xít quanh mình thì chẳng hiểu đầu đuôi ra sao. Đoản Kiều Nguyên soái thuật lại cho Lề Cang Chân nhân biết chuyện vừa rồi, Lề Cang Chân nhân vội sờ lên cổ, thấy mất lọ thuốc số 30 thì rẫy lên đành đạch mà rằng:
− Nó giết bỉ nhân rồi! Bao nhiêu năm tu luyện trong động mới chế ra được thứ thuốc quý hoá ấy, nay nó đến lấy trộm mất cả, thì thật là quân nhẫn tâm quá lắm! quá lắm!
Nói xong Lề Cang Chân nhân tiếc của, cứ mếu mãi không thôi, Đoản Kiều Nguyên soái phải an ủi rằng:
− Xin Chân nhân hãy bớt ưu sầu, để sáng mai tiểu soái ra trận bắt cho được thằng giặc lấy trộm thuốc băm ra làm trăm mảnh mới hả giận.
Lề Cang Chân nhân không thể sao được, đành phải gạt nước mắt gượng cùng Đoản Kiều Nguyên soái bàn cách ngày mai tiến quân.
Rõ thật là:
Mất của lại vừa mang tiếng dại
Trăm năm còn để một trò cười.
Người ta có thơ than rằng:
Những lời an ủi ngọt như đường
Có lúc người ta vạc đến xương
Vẫn tưởng là mình hay hớm lắm
Ngờ đâu sự nghiệp đến ngày bương.

Lại nói về Khái Huyết tiên, độn thổ một mạch về đến trại vừa nhoi đầu lên, chẳng may chỗ ấy lại có một chiếc cối đá để trên mặt đất, nên đụng vào đầu đánh chát một cái, lại vội vàng thụt xuống đi ra chỗ khác mới dám nhoi hẳn lên, một tay xoa chỗ đầu bươu, còn một tay bưng mắt tiến thẳng vào chỗ Chủ tướng Nguyễn Tề Tam và quân sư Tứ Tử Ly ngồi. Bấy giờ chủ tướng Nguyễn Tề Tam và quân sư Tứ Tử Ly còn thức đợi tin tức của Khái Huyết tiên. Khái Huyết tiên đưa trình lọ thuốc số 30, chủ tướng Nguyễn Tề Tam thấy Khái Huyết tiên nhăn nhó, liền hỏi:
− Tướng quân sao vậy?
Khái Huyết tiên nói:
− Thưa Chủ tướng, tôi đi lấy trộm thuốc, chẳng may bị Đoản Kiều biết, bắn một mũi tên thần trúng giữa mắt phải, đến lúc độn thổ trốn về đây, khi nhoi lên, đầu lại đụng cối đá, nên phải suýt soa, xin Chủ tướng tha tội.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam bảo quân sư Tứ Tử Ly bấm độn xem kẻ nào để cối đá chỗ ấy. Quân sư Tứ Tử Ly vâng lời, giơ tay lên bấm độn một lúc rồi thưa rằng:
− Thưa Chủ tướng, đó là tên hoả đầu quân số săng-soa-săng-đít-nguýt-mi-li-ông lúc chiều giã cua quên không cất cối, để đến nỗi Khái Huyết tiên đụng phải.

Chủ tướng Nguyễn Tề Tam nghe nói nổi giận, sai điệu tên quân giã cua ra chém.
Quân sư Tứ Tử Ly can rằng:
− Xin Chủ tướng bớt nóng, tuy rằng lỗi tự tên quân ấy thật, nhưng cũng là ngày hạn của Khái Huyết tiên, nếu Khái Huyết tiên hôm nay không mắc nạn cộc đầu thì thế nào cũng bị chẹt ô tô. Số giời đã định thì tránh cũng không thoát, xin Chủ tướng hãy tạm tha cho hắn để hắn đới tội lập công.

Chủ tướng Nguyễn Tề Tam khen phải, truyền tha cho tên quân ấy và cho Khái Huyết tiên xuống trại phục thuốc, còn mình tự đem lọ thuốc số 30 đổ cho Thạch Lâm uống. Thuốc vừa đổ khỏi miệng, tức thì Thạch Lâm tiên như người trong cơn mê sực tỉnh, ngơ ngác chẳng hiểu ra sao. Chủ tướng Nguyễn Tề Tam bèn thuật lại cho Thạch Lâm tiên nghe chuyện vừa rồi và bảo xuống cảm ơn Khái Huyết tiên.
Đó thật là:
Vì thương bạn, đành cam bươu đầu sứt trán,
Bởi hám danh, nên chịu tiếng bấc tiếng chì.
Đến sáng sau, hai bên cùng chỉnh bị binh mã kéo quân ra trận, Nguyên soái Đoản Kiều trông thấy Khái Huyết tiên thì tức lộn ruột lên, mắng rằng:
− Đêm qua ta đã sinh phúc cho nhà ngươi mà ngươi không biết. Hôm nay lại dẫn xác ra để chịu chết đấy à?
Khái Huyết tiên mắng lại:
− Ngươi bắn vào mắt ta, thù này ta phải báo. Thôi chớ khá nhiều lời, có giỏi thì ra đây đấu với ta trăm hiệp?
Đoản Kiều Nguyên soái cả giận, toan thúc ngựa ra đánh, thì Giang hổ hảo hớn Võ Trúng Phong hầm hè nói:
− Bẩm Nguyên soái, cắt tiết gà chẳng cần đến dao mổ trâu, kẻ làm loạn trong làng kiếm hiệp cũng không nên cần đến Ngọc Hoàng phải trị, mà đánh tên vô danh Khái Huyết, Nguyên soái cũng chớ nhọc mình, để tiểu tướng xin ra bắt sống hắn mang về treo ngược lên ngọn cờ hiệu lệnh.
Đoản Kiều Nguyên soái khen:
− Giỏi lắm đa! Nào, tướng quân thử ra bắt sống lấy hắn cho bản soái coi nào!
Võ Trúng Phong giục ngựa ra giao chiến. Bên này chủ tướng Nguyễn Tề Tam thúc toàn quân ùa sang. Nguyên soái Đoản Kiều cũng ra lệnh cho binh sĩ lăn sả vào đánh rất hăng hái. Thật là một trận đại chiến quỷ khóc thần sầu, kinh thiên động địa. Hai bên đánh nhau từ sáng sớm đến mãi chiều tối cũng vẫn không phân thắng bại. Nguyên soái Đoản Kiều nóng ruột, giơ tay lên bắt quyết miệng lẩm bẩm mấy câu thần chú, rồi quát to lên một tiếng “Mau” tức thì trời đang yên lặng, bỗng nổi lên một trận phong ba ghê gớm, đá sỏi bay mù giời. Chủ tướng Nguyễn Tề Tam cũng vội vàng tay bắt quyết, miệng lẩm bẩm mấy câu thần chú, rồi quát to lên một tiếng “Yên”, tức thì bốn bề lại gió yên cây lặng, đá sỏi cũng thôi bay. Quân sư Lưu Trọn Lừa thấy bên địch phá mất pháp bảo của chủ soái mình thì mười phần căm tức, mồm lẩm bẩm đọc thần chú “Ba la sầu”, định cho quân địch ngủ gục xuống đấy, nhưng quân sư Tứ Tử Ly bên động Phong Hoả nhanh mắt trông thấy, cả sợ, vội vàng đọc thật nhanh mấy câu thần chú hô thần Lục Giáp, rồi trỏ lên trên không gọi: “Thần Lục Giáp đâu, phải tuân hành lệnh ta!”, tức thì thần Lục Giáp từ trên giời bay xuống, nhanh như cắt, xông lại bịt mồm quân sư Lưu Trọn Lừa. Quân sư Lưu Trọn Lừa vừa đọc được mấy tiếng “Úm-ba-la, mà-na mà-ni…” thì bị ngay thần Lục Giáp lấy tay bịt chặt lấy mồm, ú ớ không đọc được nữa. Tái Can tiên thấy quân sư mình bị nạn, liền giở ba toong ra chực đánh thần Lục Giáp, quân sư Tứ Tử Ly sợ quân mình lại chết sặc vì buồn cười, phải vội giơ tay lên trên không ấn quyết và quát: “Xuống”, tức thì từ trên giời sa xuống một chiếc khổn tiên thẳng trói chặt Tái Can tiên vào chiếc ba toong. Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong và Vi Lang tiên biết quân mình sắp bại, thì không còn lòng nào ham đánh, đành phải phò Đoản Kiều Nguyên soái và Lề Cang Chân nhân chạy trốn. Quân động Phong Hoả được toàn thắng cố sức đuổi theo. Giang hổ hảo hớn Võ Trúng Phong và Vi Lang tiên thấy quân địch đuổi kíp quá, phải cải trang làm hai anh lái lợn, nhét Nguyên soái Đoản Kiều và Lề Cang Chân nhân vào hai chiếc bồ rồi gánh đi mới thoát.
Trận ấy quân động Hồng Kê thiệt hại rất lớn, phải bỏ thành Chợ Gạo về giữ bản động Hồng Kê. Các tướng lĩnh bị thua trận phải chui rúc ở mọi nơi cũng lục tục kéo nhau về.
Đoản Kiều Nguyên soái vừa thẹn lại vừa tức, quyết tâm bầy độc kế tận sát toàn động Phong Hoả để trả thù, bèn nói với Lề Cang Chân nhân cho đắp một cái đàn để bầy trận Thu hồn.
Muốn biết trận Thu hồn của Đoản Kiều Nguyên soái lợi hại như thế nào, xin xem hồi sau phân giải.
Đó thật là:
Một trận giao phòng Lề Cang vỡ mặt,
Hai lần chiến bại Đoản Kiều căm gan.
Người ta có thơ hỏi Đoản Kiều Nguyên soái rằng:
Cái giỏi kinh luân vứt bỏ đâu?
Ra quân hai trận bị thua đau!
Kế cùng, lực tận cho nên phải
Đặt trận Mê hồn hãm hại nhau.


Hồi thứ IV
Mê hồn trận khoe nhiều phép lạ
Tứ Tử Ly đoán biết mưu kỳ

Lại nói về Đoản Kiều Nguyên soái bị đại bại ở trận gầm cầu phải bỏ thành Chợ Gạo kéo quân về động Hồng Kê, trong lòng vừa thẹn vừa tức, bèn nói với Lề Cang Chân nhân cho đắp một cái đàn cao ba mươi thước để lập trận Mê hồn. Đàn đắp theo hình bát quái, chu vi trăm thước, theo cách bố trận trong binh pháp của Đạt Ma Lão tổ. Trận này rất nguy hiểm và rất khó phá, người đã vào trong trận thì còn một cái chết, chỉ có Đạt Ma Lão tổ là phá vỡ được mà thôi.
Khi dân đã đắp xong, Đoản Kiều Nguyên soái xem xét qua loa một lượt, rồi đến đêm ấy tắm rửa sạch sẽ, chống kiếm gỗ đi chân đất lên đàn, sai bày hương hoa, rồi xoã tóc triệu các Thiên thần và oan hồn các báo đến dụ rằng:
− Hỡi các Thiên thần và các oan hồn! Nay có động Phong Hoả tự nhiên nổi loạn, nên ta phải đặt trận Mê hồn này để trừ khử những kẻ làm loạn ấy, nay triệu các Thiên thần và các oan hồn đến đây, phải cố sức giúp ta, không được trái lệnh.
Các Thiên thần và oan hồn các báo đều reo to lên rằng:
− Chúng tôi xin hết lòng tuân lệnh của pháp sư.
Nguyên soái Đoản Kiều bắt đầu cắt đặt:
“Đông phương giáp ất mộc, cờ, mũ, áo, ngựa đều dùng sắc xanh, do Lý Thiên Vương, Na Tra Thái tử, Kim Tra Thái tử, Mộc Tra Thái tử dẫn oan hồn các báo Đông Tây, Đông Thanh, Đông Phương, Rạng Đông, Khai Hoá, Thực nghiệp hiệp cùng bẩy vị sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ giữ quẻ Chấn, đợi khi nào tướng bên động Phong Hoả đã vào trong trận rồi, thì nổi lên giữ chặt lấy cửa không cho ra thoát;
Tây phương bính đinh hoả, cờ, mũ, áo, ngựa đều dùng sắc đỏ, do Tề thiên Đại Thánh, Cửu đầu yêu, Lục vĩ yêu, Bách tỳ yêu, dẫn oan hồn các báo Kinh Tế, Duy Tân, Bạn trẻ, Phổ Thông, Thanh Niên, Tiếng Vang, hiệp cùng bẩy vị sao Khuê, Lâu, Vị, Mãn, Tất, Truỷ, Sâm giữ quẻ Đoài, đợi khi nào tướng bên động Phong Hoả đã vào trong trận rồi, thì nổi lên giữ chặt lấy cửa không cho ra thoát;
Nam phương canh tân kim, cờ, mũ, áo, ngựa đều dùng sắc vàng, do Thiên Sát tinh quân, Địa Sát tinh quân, Hắc Sát tinh quân, Độc cước tinh quân, dẫn oan hồn các báo Nam Phong, Ngọ Báo, Dân Mới, Nhân Loại, Nhật Tân, Nước Non hiệp cùng bảy vị sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Chương, Dực, Chẩn giữ quẻ Ly, đợi khi nào tướng bên động Phong Hoả đi vào trong trận rồi, thì nổi lên giữ chặt lấy không cho ra thoát;
 Bắc phương nhâm quý thuỷ, cờ, mũ, áo, ngựa đều dùng sắc trắng, do Tôn Võ Tử Chân nhân, Quỷ Cốc tiên ông, Hiệt địa La hán, Xích diện La hán, dẫn oan hồn các báo Bắc Kỳ thể thao, Bắc Ninh tuần báo, An nam tập chí, Tân Thanh tạp chí Hải phòng tuần báo Tứ Dâu tạp chí hiệp cùng bảy vị sao Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích giữ quẻ Tốn, đợi khi nào tướng động Phong Hoả đã vào trong trận rồi, thì nổi lên giữ chặt lấy cửa không cho ra thoát;
Trung ương mậu kỷ thổ, cờ, mũ, áo, ngựa đều dùng sắc đen do Hỗn Mang Hoà thượng, Hắc trụ Hoà thượng, Long Chu quái hiệp, Côn Ma quái hiệp dẫn oan hồn các báo Loa, Tâu nữ lưu, Phụ nữ thời đàm, Nông công thương, Tiểu thuyết tuần san hiệp với Ngũ hành tinh quân giữ quẻ Kiền, đợi khi nào tướng bên Phong Hoả vào đến giữa trận, phải báo hiệu lay cờ lạc hồn phan lên để thu hồn tướng ấy, nhưng không được hại.
Trên không thì giao cho Nhị Lang thần đem con chó Topi canh gác thiên la, khi thấy tướng bên động Phong Hoả đã vào trận rồi mà định thăng thiên để trốn, thì phải chăng thiên la ra bắt;
Dưới đất giao cho Phá thổ quỉ canh gác địa võng, khi thấy tướng bên động Phong Hoả đã vào trận rồi mà định độn thổ để trốn, thì phải chăng địa võng ra bắt.
Còn các tướng lĩnh thì Đoản Kiều Nguyên soái cắt đặt như sau này:
Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong cầm thanh chu-tiên-kiếm gác cửa Đông, khi thấy tướng bên Phong Hoả đến phá trận, phải dụ cho tướng ấy vào trong trận rồi chạy qua chỗ cờ lạc hồn phan vòng lên đài bẩm mệnh;
Vi Lang tiên cầm thanh diệt-yêu-kiếm gác cửa Tây, khi thấy tướng bên Phong Hoả đến phá trận, phải dụ cho tướng ấy vào trong trận rồi chạy qua chỗ cờ lạc hồn phan vòng lên đài bẩm mệnh;
Tái Can tiên cầm thanh trừ-tà-kiếm gác cửa Nam, khi thấy tướng bên Phong Hoả đến phá trận, phải dụ cho tướng ấy vào trong trận rồi chạy qua chỗ cờ lạc hồn phan vòng lên đài bẩm mệnh;
Bất Thông tiên cầm thanh đả-ma-kiếm gác cửa Bắc, khi thấy tướng bên Phong Hoả đến phá trận, phải dụ cho tướng ấy vào trong trận, rồi chạy qua chỗ cờ lạc hồn phan vòng lên đài bẩm mệnh;
Trương thị Lệ Cúc tiên cô cầm bó-cúc-trắng giữ cờ lạc hồn phan, khi nghe hiệu của Hỗn Mang Hoà thượng báo, đợi cho tướng bên mình chạy khỏi rồi, lập tức lay cờ lạc hồn phan lên bảy lần để thu lấy bảy vía của tướng bên Phong Hoả;
Quân sư Lưu Trọn Lừa hôm trước định đọc thần chú “Ba la sầu” để khiến cho binh sĩ bên Phong Hoả ngủ gật, chẳng may Quân sư Tứ Tử Ly biết trước, sai thần Lục Giáp xuống bịt chặt lấy mồm, Quân sư Lưu Trọn Lừa phải cố giằng ra mà chạy, vì thần Lục Giáp bịt chặt quá, nên quân sư Lưu Trọn Lừa bị sái quai hàm, Lề Cang Chân nhân phải hoà thuốc số 14 cho uống, nay tuy chưa khỏi hẳn nhưng cũng phải cầm kiếm gỗ đứng trấn trên đài, khi thấy tướng bên Phong Hoả xông lên, thì lại niệm trú “Ba la sầu” và hô Lôi Công hoá sấm sét đánh xuống.
Rồi Nguyên soái Đoản Kiều đem một đấu chu sa rắc khắp trong trận để hô âm binh và đem một bát hồng thuỷ để gần cờ lạc hồn phan phòng có kẻ nào vào cướp cờ thì bát hồng thuỷ ấy sẽ hoá làm một giải sông nước đỏ như máu, sóng vật lưng trời, chắn lối không thể bơi ra cướp được.
Sau cùng, Nguyên soái Đoản Kiều gọi linh hồn các kiếm hiệp đến truyền rằng:
− Hỡi các ngươi! Bản soái biết các ngươi là một lũ lười biếng, không chịu làm việc nuôi mình, chỉ trông vào “cái” kiếm hiệp để được an nhàn. Như vậy, nếu các ngươi để cho tụi Phong Hoả còn sống ngày nào thì các ngươi khó lòng mà yên thân được với chúng ngày ấy. Chi bằng các ngươi cố sức giúp bản soái trừ tiệt chúng đi, thì không còn ai bới móc đến công việc của các ngươi nữa, lúc ấy các ngươi tha hồ reo rắc những cái dị đoan vô lý vào óc người đời mà vơ tiền cho đầy túi. Các ngươi nghĩ sao?
Linh hồn các kiếm hiệp nghe nói thảy đều vui mừng hớn hở vái Nguyên soái Đoản Kiều mà bẩm rằng:
− Bẩm Nguyên soái, nếu có thể làm cho tụi Phong Hoả chết đi để chúng tôi được kiếm tiền một cách dễ dàng, thì dù có phải nhảy vào đống lửa chúng tôi cũng chẳng dám từ.

Nguyên soái Đoản Kiều cả mừng, trao cho mỗi tên một thanh kiếm gỗ, sai đứng gác bát nước hồng thuỷ, nếu thấy tướng bên Phong Hoả đến cướp cờ lạc hồn phan thì phải lập tức bắt đổ bát nước ấy.

Mọi việc cắt đặt đã xong, Nguyên soái Đoản Kiều thân về động Hồng Kê mời Lề Cang Chân nhân vào thăm trận, Lề Cang Chân nhân theo Nguyên soái Đoản Kiều vào đến nơi thì thấy, bên trong tối tăm mù mịt, lạnh lẽo âm thầm, tiếng oan hồn các báo kêu văng vẳng nghe rợn cả người, Lề Cang Chân nhân vốn tính nhút nhát, thấy thế thì sợ run lên cầm cập, cứ níu chặt lấy áo Nguyên soái Đoản Kiều không dám rời ra một phút. Nguyên soái Đoản Kiều dương dương tự đắc, giơ tay lên đầu vuốt sừng mấy cái và nói với Lề Cang Chân nhân rằng:
− Động Phong Hoả phen này ắt hẳn một mống cũng không còn. Ta hãy cho họ ngủ nốt đêm nay, đến mai bắt cũng chưa muộn.
Nói rồi Nguyên soái Đoản Kiều cười xoắn bộ râu dê, Lề Cang Chân nhân nghe nói thích chí, cũng cười vêu mồm cá ngão.
Đó thật là:
Chưa giỏi đã toan bề đắc chí,
Nhớ chăng cái lúc rúc trong bồ?

Lại nói về trại bên Phong Hoả, đêm ấy quân sư Tứ Tử Ly nằm bị muỗi đốt dữ quá không sao nhắm mắt được liền lững thững ra sân trông lên giời thấy ngôi tướng tinh của chủ tướng Nguyễn Tề Tam bị mờ thì lấy làm lạ, định trèo lên cây sấu gần đấy xem thiên văn, nhưng mới đi được vài bước thì dẫm phải chiếc vỏ chuối trượt chân ngã bổ nhào trên mặt đất, đau quá chết ngất đi đến nửa giờ, lúc tỉnh lại cố gượng dậy mồm lẩm bẩm:
− Thật là một điềm lạ!
Bèn giơ tay bấm độn, bỗng nhiên sợ thất sắc rồi khóc hu hu lên. Các tướng sĩ đang ngủ nghe tiếng khóc choàng thức giậy, mọi người thấy quân sư Tứ Tử Ly đứng giữa sân mà khóc thì thảy đều không hiểu ra sao. Chủ tướng Nguyễn Tề Tam hỏi:
− Quân sư tại sao mà khóc?
Hỏi ba bốn câu cũng chẳng thấy trả lời, tưởng quân sư ngộ cảm, chủ tướng Nguyễn Tề Tam cuống quít, truyền quân vực vào trong trướng đặt nằm trên giường lim rồi sai người lấy gừng đánh gió và đi hú hồn khắp mọi nơi. Một lúc quân sư Tứ Tử Ly dần dần nín khóc, chủ tướng Nguyễn Tề Tam cả mừng, lại gần hỏi:
− Quân sư tại làm sao mà khóc?
Quân sư Tử Ly gạt nước mắt thưa rằng:
− Thưa chủ tướng, số là tôi vừa bấm độn biết rằng Đoản Kiều đêm nay đang bầy một trận gọi là trận Mê hồn, mà cứ như quẻ độn thì số chư tướng cùng các tiên ông ở động ta phải mắc trong trận ấy. Nếu quá mười lăm hôm không có người phá vỡ cứu ra thì thể nào cũng chết, vì vậy nên tôi khóc.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam nghe nói sợ phồng bong bóng mũi, hỏi rằng:
− Vậy biết tính làm sao bây giờ?
Quân sư Tứ Tử Ly nói:
− Trận Mê hồn này rất lợi hại, không ai phá nổi, chỉ còn một cách là đến cầu cứu Đạt Ma Lão tổ, nhờ ngài hạ sơn gọi hai đồ đệ là Đoản Kiều và Lưu Trọn Lừa về, bắt triệt trận ấy đi, nếu không nghe thì đánh. Ngoài cách ấy ra không còn kế gì khác nữa.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam thở dài mà rằng:
− Thôi ta cũng đành phó thác thân ta cho thần Số mệnh, nhưng sau khi ta bị hãm trong trận rồi quân sư nên liệu mau mau đi cầu Đạt Ma Lão tổ hạ sơn để cứu lấy sinh mạng các tướng kẻo chậm trễ thì nguy.
Quân sư Tứ Tử Ly nói:
− Một mình Đạt Ma Lão tổ cũng vị tất đã phá nổi, muốn cho chắc chắn phải đến Lê Sơn Thánh mẫu mượn Mai Hương Đạo cô; đến Bạch Mi Lão tổ mượn Lê Phong tiên; đến Nguyên Thuỷ Thiên tôn mượn Kỳ Phát tiên; đến Linh Hồn Trẻ mượn Uyên Riêm tiên, Hải Triêu tiên, Hải Thành tiên, Mạnh Chát tiên, Hồ Lơ tiên; đến Hậu Giám thành mượn Bình Minh tiên, Việt Thi tiên, Trăm Năm tiên, Lê Dân tiên và Hương Thịnh tiên mang đội quân Bình Dân đi tiếp cứu; đến Tin Vịt mượn Phỉ Phong tiên, Lê Thành tiên, Lùng Tùng Tử tiên mới hòng phá vỡ được trận ghê gớm này.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam gật đầu nói:
− Tính mệnh ta và tính mệnh các tướng sống chết đều nhờ ở tay quân sư, quân sư nên hết lòng cầu chư tiên đến giúp.
Quân sư Tứ Tử Ly thưa:
− Chủ tướng cứ yên lòng. Sau khi chư tướng lâm nạn rồi, tôi sẽ xin hết sức cầu chư tiên đến giúp. Nếu chư tiên đều một lòng giúp ta thì phen này quân động Hồng Kê và tụi kiếm tiên đến hồi mạt vận.
Hai người còn đang trò chuyện, trống lầu thoắt điểm canh năm, Chủ tướng Nguyễn Tề Tam đăng trướng nói với chư tướng rằng:
− Từ khi chúng ta đi chinh phục động Hồng Kê, hễ quân ra giặc chạy, tướng đến thành tan. Nay không ngờ Đoản Kiều cậy có phép yêu bầy ra trận Mê hồn để hãm hại chúng ta, mà cứ như lời quân sư nói thì số ta cùng các tướng đều mắc phải trận ấy trong ít lâu sẽ có người đến cứu. Vậy chư tướng chớ khá nản lòng, cùng hăng hái xông vào trong trận cho giặc khiếp oai, đợi khi có người giải cứu, chúng ta sẽ lại được về tụ họp cùng nhau.

Chư tướng thảy đều cúi đầu nghe lệnh, chủ tướng Nguyễn Tề Tam bèn cắt đặt:
− Tù Mờ tiên vào phá cửa Đông, nếu gặp ai ra cản đường thì liều chết xông vào đánh;
Lê La tiên vào phá cửa Tây, nếu gặp ai ra cản đường thì liều chết xông vào đánh;
Hàn Đãi Đá tiên vào phá cửa Nam, nếu gặp ai ra cản đường thì liều chết xông vào đánh.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam thì tự mình vào phá cửa Bắc, còn bao nhiêu binh tướng đều cho ở nhà giúp quân sư Tứ Tử Ly giữ thành phòng khi quân động Hồng Kê đến cướp.

Cắt đặt vừa xong, bỗng có quân giữ thành vào bẩm.
− Bẩm chủ tướng, tướng động Hồng Kê đã đến trước thành khiêu chiến.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam truyền kéo quân ra trận, điều kiều trên mặt thành, vừa hạ xuống đã nghe thấy tiếng quân bên động Hồng Kê hò reo mắng nhiếc, rồi có loa gọi to lên rằng:
− Bớ đồ vu cáo hèn! Lũ ngươi có giỏi thì ra đối địch cùng ta.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam nghe thấy thì trong lòng cả giận, cũng sai quân bắc loa lên trả lời:
− Bớ lang lậu! Quân mỗ sắp ra khỏi cửa thành, các ngươi liệu bảo nhau rửa sẵn cổ để quân mỗ chém.
Nói xong, kíp thúc quân sĩ tràn ra mặt thành dàn trận, khi trận vừa dàn xong đã thấy Nguyên soái Đoản Kiều thúc ngựa ra trước nói to lên rằng:
− Chủ động Phong Hoả đâu? Mau ra đây ta hỏi chuyện.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam cũng thúc ngựa ra quát to lên rằng:
− Có ta đây, Ngươi muốn nói gì cứ nói.
Nguyên soái Đoản Kiều cười khà khà mà rằng:
− Nay ta mới bày xong một trận, ngươi có dám vào phá không?
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam vênh váo đáp:
− Ta cho nhà ngươi cứ lui vào trong trận, ta sẽ đến phá ngay bây giờ.
Nguyên soái Đoản Kiều lui về trận, truyền các binh tướng cứ như y lời dặn mà đề phòng, rồi dắt tay Lề Cang chân nhân trèo lên đàn ngồi bắt chéo chân hút thuốc lá.
Ngoài này chủ tướng Nguyễn Tề Tam cũng dặn lại các tướng một lượt, rồi tản ra chung quanh đánh vào bốn mặt trận.
Thoạt tiên Tù Mờ tiên vào phá cửa Đông, gặp giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong cầm thanh chu-tiên-kiếm ra cản đường, hai người đánh nhau dăm hiệp, Võ Trúng Phong lui dần vào trong trận, Tù Mờ tiên đuổi theo đến chỗ lạc hồn phan, bỗng cây phan đảo mấy cái, Tù Mờ tiên tự nhiên hôn mê bất tỉnh ngã gục xuống chân ngựa rồi nằm lăn ra như chết.
Đến lượt Lê La tiên vào phá cửa Tây gặp Vi Lang tiên cầm thanh diệt-yêu-kiếm ra cản đường. Lê La tiên tung luôn quả bóng bằng cao su lên, Vi Lang tiên vội lùi vào trong trận, Lê La tiên đuổi theo vào đến chỗ cờ lạc hồn phan lại thấy cây phan đảo mấy cái, Lê La tiên cũng hôn mê bất tỉnh và ngã gục ngay xuống đấy.
Lại đến Hàn Đãi Đá tiên vào phá cửa Nam gặp Tái Can tiên tay cầm thanh trừ-tà-kiếm chạy ra cản đường. Hàn Đãi Đá tiên hăng hái xông vào đánh, Tái Can tiên chỉ mỉm cười lui vào trong trận, đến chỗ cờ lạc hồn phan, cờ đảo lên mấy cái, Hàn Đãi Đá cũng lại ngã lăn xuống chân ngựa nốt.

Còn chủ tướng Nguyễn Tề Tam tự xông vào phá cửa Bắc, gặp Bất Thông tiên cầm thanh đả-ma-kiếm xông ra chặn đường. Chủ tướng Nguyễn Tề Tam quát to lên rằng:
− Bớ Bất Thông! Ngươi có nhận ra ta là ai không?
Bất Thông tiên cười mũi rồ đáp lại:
− Có. Ta có nhận ra ngươi là đồ xỏ lá. Ngươiãỏ ta một vố làm gái sề nhà ta đánh ta một trận gần chết rồi nhốt ta vào cũi, và, than ôi! ta cũng vẫn không được giáp mặt em Tần!

Chủ tướng Nguyễn Tề Tam nghe nói cả giận, cầm kiếm nhằm đầu Bất Thông tiên chém xuống. Bất Thông tiên vội giơ đả-ma-kiếm lên đón đỡ và chạy vào trong trận, khi đến chỗ cờ lạc hồn phan, cờ đảo lên mấy cái, nhưng chủ tướng Nguyễn Tề Tam trên mũ có đính một viên ngọc minh châu của sư phụ là Lý Toét Lão tổ trao cho, nên vẫn tỉnh táo như thường, cứ giục ngựa đuổi theo Bất Thông tiên. Bất Thông tiên trong bụng đinh ninh là Nguyễn Tề Tam đã bị cờ lạc hồn phan thu mất hồn rồi nên không phòng bị. Đến khi nghe tiếng nhạc ngựa gần sau lưng, ngoảnh lại đã thấy Nguyễn Tề Tam đuổi đến nơi. Bất Thông tiên trong lòng hoảng sợ, vội vàng thúc ngựa chạy bừa lên đàn. Trên đàn lúc ấy Nguyên soái Đoản Kiều và Lề Cang Chân nhân đang ngồi hút thuốc lá, giữa bàn có chai thuốc số 30 của Lề Cang chân nhân mới chế, rót ra mời Nguyên soái Đoản Kiều nếm thử. Nguyên soái Đoản Kiều uống chưa cạn cốc thì chẳng may con ngựa của Bất Thông lồng lên nhảy vọt qua đầu, chân sau chạm phải sừng Nguyên soái Đoản Kiều, Nguyên soái Đoản Kiều đau qua chết ngất đi. Quân sư Lưu Trọn Lừa đứng canh trước đàn đang ngủ gật nghe có tiếng động thì mở bừng mắt ra, thấy Nguyễn Tề Tam đã xông đến trước mặt, trong lòng cả sợ, vội tay bắt quyết miệng lẩm bẩm: “Úm-ba-la mà-na mà-ni ca-la-sầu”. Nhưng lạ thay! Câu thần chú mầu nhiệm đến thế mà Nguyễn Tề Tam cũng không hề ngủ gật. Quân sư Lưu Trọn Lừa sợ quá, vội đọc tiếp một thôi một hồi thần chú bằng thơ mới:
Hỡi Bát Nhã Kim Cương!
Mau mau đi tàu bay đến đây
Để thu hồn tên Tề Tam
Hỡi mảnh giăng vàng trên cao!
Ngươi giãi ánh xuống trần gian vừa vừa chứ
Kẻo làm điếc tai ta
Sao ngươi không giãi vào đầu tên Tề Tam
Để hắn vỡ đầu ra?
Từ nay ngươi có giãi thì đừng
để cho ta nghe thấy tiếng nữa nhé,
Kẻo oan cho cái tai ta lắm
Hỡi mảnh giăng vàng trên cao!
 (Phỏng theo điệu và vần thơ của ông Lưu Trọng Lư)

Quân sư Lưu Trọn Lừa vừa đọc xong bài thần chú ấy thì có một thứ ánh sáng như ánh sáng của mặt trăng từ trên không chiếu xuống, trong ánh sáng lại phát ra tiếng kêu ầm ầm như sấm khiến chủ tướng Nguyễn Tề Tam bị chói loà, vội vàng bưng chặt lấy mắt, rồi dần dần mê man bất tỉnh.
Muốn biết có ai phá nổi trận Mê hồn không? Xin xem hồi sau phân giải.
Đó thật là:
Trăng giãi ầm ầm bên hiên vắng
Hay trăng định ném vỡ đầu ai?
(Ai muốn hiểu hai câu thơ này xin xem bài “Bao la sầu” của ông Lưu Trọng Lư sẽ hiểu)
Người ta có thơ rằng:
Than ôi! Sao cái ánh trăng vàng
Người lại ầm ỹ giãi lung tung?
Để cho mọi người nghe thấy tiếng,
Để ai niệm… Úm ba la sầu
 (Phỏng theo vần và điệu thơ của ông Lưu Trọng Lư).

 

Hồi thứ V
Quần tiên hội yến phá trận Mê hồn
Hảo hớn Trúng Phong lột xiêm Thị Mịch

Lại nói về quân sư Tứ Tử Ly, sau khi chủ tướng Nguyễn Tề Tam đem tướng sĩ vào phá trận rồi thì vội vàng độn thổ đi cầu cứu chư tiên các động. Đến đâu cũng được tiếp đãi tử tế và các tiên hứa sẽ đến giúp. Quân sư Tứ Tử Ly mừng rỡ, lại độn thổ một mạch đến Cội Sơn yết kiến Đạt Ma Lão tổ, thưa rõ mọi việc và khẩn cầu Lão tổ hạ sơn gọi hai đồ đệ về.

Đạt Ma Lão tổ thấy hai đồ đệ mình làm bậy bèn nói với Tứ Tử Ly rằng:
− Ta nay đã lánh ra ngoài cõi tục không còn mảng đến những việc dưới trần nhưng vì hai đồ đệ ta cậy có pháp thuật cao cường, định cưỡng cả mệnh trời, nên ta phải hạ sơn một phen, cũng là vạn bất đắc dĩ. Vậy nhà ngươi phải mau mau đến Thôn Sơn cầu Lý Toét Lão tổ là sư phụ Nguyễn Tề Tam, nói rõ đầu đuôi nhờ người đến giúp, và ngay đêm nay, ngươi phải về lập trên núi Nùng một chiếc thảo lư bày hương hoa lên để chư tiên đến phó hội.
Quân sư Tứ Tử Ly vâng lệnh lui ra, lại độn thổ đến Thôn Sơn ra mắt Lý Toét Lão tổ. Lý Toét Lão tổ đang ngồi trên tòa sen thấy Tứ Tử Ly đến, thì nổi giận mắng rằng:
− Hỡi đồ súc sinh kia! Tại sao lũ ngươi dám nay vẽ hình ta lên mặt báo, mai vẽ hình ta lên mặt báo để cười cợt với nhau, bây giờ còn vác mặt đến đây làm gì hử?
Tứ Tử Ly thưa:
− Bẩm sư phụ, đó là tự con khỉ Đông Sơn từ ngày uống trộm rượu của sư phụ, sợ sư phụ phạt phải trốn xuống trần, hắn uống nhiều quá nên mấy năm nay vẫn say la đà sinh ra vẽ nhảm, chứ lũ đệ tử thì không bao giờ dám thế, xin sư phụ xét lại mà tha tội cho.
Lý Toét Lão tổ nghe nói cũng nguôi cơn giận bèn hỏi:
− Thế bây giờ ngươi đến đây có việc gì?
Tứ Tử Ly bèn đem chuyện khởi binh đánh động Hồng Kê bị Đoản Kiều bầy trận Mê hồn thuật rõ một lượt, rồi như muốn làm cho Lý Toét Lão tổ phải cảm động, Tứ Tử Ly cứ ôm lấy tòa sen khóc sướt mướt. Lý Toét Lão tổ ngẫm nghĩ hồi lâu rồi gọi tiên đồng Xã Xệ đến trao cho chiếc ô thần, phán rằng:
− Ta cho nhà ngươi đem bảo bối của ta theo Tứ Tử Ly về trước, đến canh hai đêm nay đợi ta hạ sơn sẽ liệu.

Tiên đồng Xã Xệ vâng lệnh cầm bảo bối cùng Tứ Tử Ly độn thổ về trại.
Về đến trại, quân sư Tứ Tử Ly sai quân đến trại Bách Thú, lập trên núi Nùng một chiếc thảo lư. Tiên đồng Xã Xệ bàn rằng:
− Bên chân núi Nùng có mấy gian chuồng khỉ còn bỏ không, nay ta mượn lấy một gian để đón chư tiên càng đỡ tổn phí, Quân sư nghĩ sao?
Quân sư Tứ Tử Ly khen phải, sai quân quét dọn một gian chuồng khỉ cho sạch sẽ để canh hai đêm ấy chư tiên đến phó hội.

Thấm thoắt đã đến canh hai, Quân sư Tứ Tử Ly mặc áo đạo sĩ chực sẵn ở chân núi chờ đón chư tiên. Một lúc sau, khắp bốn phía có những làn kiếm quang đủ mọi sắc vun vút bay đến đều chui vào trong chuồng khỉ. Khi các vị tiên đã đến đông đủ cả rồi, Đạt Ma Lão tổ nhiều tuổi nhất được cử lên chủ toạ phiên Hội đồng tiên, thứ đến Lý Toét Lão tổ, còn thì cứ so tuổi hơn kém mà ngồi trên dưới. Khi chư tiên đã yên vị, Đạt Ma Lão tổ đứng dậy nói:
− Thưa chư tiên, bần đạo chẳng may dậy lầm phải hai đồ đệ là Đoản Kiều và Lưu Trọn Lừa có tính ngang tàng bướng bỉnh, trốn bần đạo xuống phàm trần, dỗ ngon dỗ ngọt tên Lề Cang lòi tiền ra làm báo, nêu hắn lên làm cái bung xung, rồi trăm tội đổ đầu lang lậu! Thật là tội của chúng to lắm vậy thay! Nay chư tiên đã hạ cố xuống đây, xin hết sức giúp bần đạo bắt chúng về giam vào nhà pha trong động, bạt ba năm không cho trông ánh mặt trời, để chúng cải tà qui chính cũng là một thiện quả vậy.

Đạt Ma Lão Tổ nói dứt lời, chư tiên đều vỗ tay hoan hô ầm ỹ, làm lũ khỉ chuồng bên đang ngủ choàng thức giậy, sợ hãi kêu chí choét.
Nghe thấy tiếng lũ khỉ kêu, Quân sư Tứ Tử Ly lại chạnh nhớ tới anh mình là Đông Sơn (biệt hiệu của chủ tướng Nguyễn Tề Tam) hiện giờ còn bị khốn trong trận không biết sống chết thế nào, trong lòng thương cảm vô cùng, bất giấc khóc chu chéo lên như bị ai đánh. Chư tiên phải khuyên giải một hồi, Quân sư Tứ Tử Ly mới gạt nước mắt rót bia mời chư tiên uống, uống được vài cốc thì đã sang canh ba. Chư tiên đều sắp sửa bảo bối để cùng nhau đi phá trận. Quân sư Tứ Tử Ly đằng vân đi trước dẫn đường. Khi cách trận Mê hồn chừng dăm trăm thước, Đạt Ma Lão Tổ cùng Lý Toét Lão Tổ dắt tay nhau tiến đến trước trận gọi Nguyên soái Đoản Kiều ra hỏi rằng:
− Bớ Đoản Kiều! Sao ngươi giám cậy có pháp thuật, đặt ra trận Mê hồn để hãm hại những kẻ mà trời chưa bắt chết? Tội ngươi thật đáng bỏ vạc dầu. Nay nếu ngươi biết điều triệt trận ấy đi và thả các tướng bên động Phong Hoả ra, theo ta về núi tu luyện thì ngươi được toàn thân, bằng trái lệnh ta, ắt ta phải ra tay trị tội.
Nguyên soái Đoản Kiều vòng tay thưa rằng:
− Dám bẩm sư phụ! Tụi Nguyễn Tề Tam là những đồ vu cáo hèn. Chúng giám vu cho Lề Cang Chân nhân là ngốc, là dốt đặc cán mai. Chúng lại còn oẻ họe rằng là lang thì không được ra làm báo. Chúng có biết đâu rằng là lang có khi còn làm chết được người, chứ là chủ báo thì dù dốt đến đâu cũng chẳng chết ai. Nay đệ tử muốn ra tay cho chúng biết, kẻo chúng cứ dìm giá trị của Lề Cang Chân nhân, là bậc vĩ nhân trong làng báo. Thôi, xin sư phụ trở lại núi tu luyện để muôn năm hưởng lấy tuổi trời, để mặc đệ tử với chúng, kẻo khi đã giao binh, lại phạm đến tình sư đệ.

Đạt Ma Lão tổ nổi giận mắng rằng:
− Hỡi đồ súc sinh kia! Ta lấy lời phải bảo ngươi, ngươi lại dám doạ cả ta à? Hãy trông bảo bối của ta đây.

Đạt Ma Lão tổ nói xong, tung vòng càn khôn nguyện lên trời, nhằm đầu Nguyên soái Đoản Kiều đánh xuống, Nguyên soái Đoản Kiều vội chạy thẳng vào trong trận. Đạt Ma Lão tổ truyền Chư tiên vây chặt lấy bốn cửa, mồm lẩm bẩm niệm chú rồi hét to lên:
− Các Thiên thần đâu?
Các thiên thần đang canh gác trong trận nghe tiếng Đạt Ma Lão tổ gọi thì vội vàng chạy đến bẩm:
− Bẩm Lão tổ chúng tôi đây.
Đạt Ma Lão tổ phán:
− Các Thiên thần phải lập tức về trời, không được giúp tên Đoản Kiều làm bậy. Nếu trái lệnh, ta sẽ tư giấy lên trời phạt bốn ngày lương.

Các thiên thần thấy Đạt Ma Lão tổ doạ “cúp” lương thì cả sợ, vội vàng cùng nhau bay thẳng về trời.
Đạt Ma Lão Tổ lại làm phép giải tán oan hồn các báo, rồi quay lại nói với Lý Toét Lão Tổ:
 − Bây giờ xin Lão Tổ đằng vân đi bốn mặt trận ra lệnh cho chư tiên cùng tung pháp bảo lên và cùng xông vào phá trận.

Lý Toét Lão Tổ y lời, bèn cưỡi mây bay đi bốn mặt trận ra lệnh cho chư tiên. Chư tiên được lệnh, cùng tung kiếm quang lên và ùa cả vào trong trận. Đoản Kiều Nguyên soái biết cơ nguy biến, vội vàng bấm Quân sư Lưu Trọn Lừa hoá ra hai làn kiếm quang chạy trốn, bỏ mặc Lề Cang Chân nhân và các tướng sĩ ở trong trận. Lề Cang Chân nhân thấy trận sắp vỡ mà Nguyên soái Đoản Kiều và Quân sư Lưu Trọn Lừa thì đã trốn rồi, trăm phần lo sợ, mếu máo nói với Giang hồ Hảo hớn Võ Trúng Phong rằng:
−  Hảo hớn ơi, hảo hớn! Hãy cứu lấy tính mệnh ta.
Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong nói:
−  Chân nhân cứ theo tôi mà chạy.
Nói xong Võ Trúng Phong vác đòn gánh cố đánh tháo lấy một đường để chạy.

Chư tiên đã vào cả trong trận rồi, Lý Toét Lão tổ sai tiên đồng Xã Xệ tung chiếc ô thần lên, hoá làm muôn đạo hào quang chiếu sáng cả một vùng, và làm tan khí lạnh, rồi Lão tổ lấy một viên linh đan sai Thạch Lâm tiên múc chén nước lã mài ra đổ cho chư tướng của động Phong Hoả. Khi chư tướng đã tỉnh hẳn đều kéo nhau đến tạ ơn Lý Toét và Đạt Ma Lão tổ, Đạt Ma Lão tổ nói:
− Các ngươi bất tất phải thủ lễ quá. Bây giờ hãy bắt cho hết các yêu tiên ở động Hồng Kê giải về cho ta xử tội.
Chư tướng vâng lệnh kéo nhau đi lùng bắt các tiên của động Hồng Kê.  Lý Toét Lão tổ nói với Bình Minh tiên:
− Tiên ông hãy bắt cho hết lũ kiếm tiên, quái hiệp mang về để chúng ta xử tội.

Bình Minh tiên nghe lời, cưỡi con Xích-Phanh bay lên trên không đọc mấy câu thần chú, tức thì lũ kiếm tiên quái hiệp tự nhiên như có người trói lại, đều đến trước mặt Bình Minh tiên, khóc sướt mướt thưa rằng:
 − Thưa tiên trưởng, chúng tôi vốn con nhà lương thiện, chỉ vì bị Đoản Kiều Nguyên soái dỗ dành nên mới nhắm mắt làm liều, xin tiên trưởng tha tội cho.

Bình Minh tiên cười nhạt mà rằng:
− Lũ ngươi là đồ mạt kiếp, lười biếng quen thân, chẳng chịu kiếm lấy một nghề, cứ “lia” cái kiếm tiên quái hiệp ra để rắc vào óc người đời những điều dị đoan nhảm nhí mà lấy tiền, lũ ngươi vô lương tâm đến thế là cùng, tội các ngươi như thế ta tha sao được?

Nói xong Bình Minh tiên điệu lũ kiếm tiên quái hiệp ấy đến trước Lý Toét Lão Tổ, Lý Toét Lão tổ sai Hàn Đãi Đá tiên dẫn về chuồng khỉ để lát nữa chư tiên về hội họp đông đủ cả rồi sẽ xử tội.
Đó thật là:
Đã tưởng yên thân gieo hại mãi,
Ai ngờ tội vạ đến sau lưng

Đạt Ma Lão tổ tìm khắp trong trận không thấy Lề Cang Chân nhân, Đoản Kiều Nguyên soái, Quân sư Lưu Trọn Lừa và Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong đâu, thì biết rằng họ đã trốn cả rồi, bèn sai Thạch Lâm tiên, Lê La tiên, Xã Xệ tiên và Tù Mờ tiên đi lùng khắp bốn phương hễ thấy chui rúc vào xó nào thì phải lập tức bắt lấy, nếu biết sức mình không địch nổi thì phải về báo để chư tiên đến bắt.

Bốn vị tiên lĩnh mệnh kéo nhau đi. Đạt Ma Lão tổ mời chư tiên quay về chuồng khỉ yên nghỉ.
Lại nói về Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong phò Lề Cang Chân nhân chạy ước hơn ba mươi dặm mới dám quay đầu nhìn lại, thấy không có ai đuổi theo bèn nói với Lề Cang Chân nhân rằng:
− Từ đây đến nhà tiểu tướng cũng gần, xin Chân nhân chịu khó đi lát nữa kẻo nghỉ giữa đường lỡ quân do thám bên Phong  Hoả trông thấy thì nguy.

Lề Cang Chân nhân được thoát nạn trong bụng rất mừng, quên cả khó nhọc, cứ lẽo đẽo chạy theo sau Võ Trúng Phong tìm nơi ẩn tránh.
Hai người cầm đầu chạy tới một thôn trang, Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong dẫn Lề Cang Chân nhân vào trong thôn, đến một túp lều tranh, Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong nói với Lề Cang Chân nhân rằng:
− Thưa Chân nhân đây là nhà của tiểu tướng, xin Chân nhân vào lánh tạm trong này để rồi ta sẽ bàn kế phục thù.
Nói xong, Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong đi thẳng vào nhà cất tiếng gọi:
−  Mẹ cái đĩ ơi! Mẹ cái đĩ có nhà không đấy.

Trong nhà bỗng có tiếng đáp:
−  Tôi có nhà đây, bố thằng cu đã về đấy à?
Dứt lời, từ trong buồng chạy ra một người đàn bà nhà quê vừa thấp vừa béo, hai con mắt cặp kèm, vận quần một ống. Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong trỏ Lề Cang Chân nhân giới thiệu:
− Tôi xin giới thiệu với mẹ cái đĩ đây là Lề Cang Chân nhân chủ Hồng Kê động, tác giả “số 30”.
Rồi quay lại nói với Lề Cang:
− Đây là Nguyễn Thị Mịch, mẹ cái đĩ Nhớn nhà tôi.

Nguyễn Thị Mịch và Lề Cang Chân nhân cùng nhã nhặn sẽ cúi đầu chào nhau, và cùng nói hai tiếng “hân hạnh” rồi Võ Trúng Phong bảo Nguyễn Thị Mịch đi làm rượu thết Lề Cang Chân nhân. Một lúc lâu mâm rượu đã dọn, hai người cùng ngồi vào ăn uống rất vui vẻ.
Trong khi hai người đang cùng nhau chén chú chén anh bỗng có mấy viên đá xanh ném vào giữa mâm rượu, làm đổ vỡ lung tung. Võ Trúng Phong biết rằng có biến, vội đứng dậy vớ lấy chiếc đòn gánh bảy gióng chực nhẩy xổ ra cửa, Lề Cang Chân nhân cũng sợ run lên cầm cập, líu lưỡi hỏi Võ Trúng Phong rằng:
 − Tướng quân ơi! Bỉ nhân trốn vào đâu cho khỏi bị đá ném bây giờ?

Võ Trúng Phong đang lúc cuống chí cũng không biết làm thế nào, sau đành phải bảo Lề Cang Chân nhân chui vào hòm rồi khoá kỹ lại. Xong đâu đấy, Võ Trúng Phong nhảy ra cửa trông thấy Thạch Lâm tiên đang lần cạp quần lấy đá ném, thì múa tít đòn gánh quát to lên rằng:
− Bớ nghịch tặc! Có giỏi ra đây giao chiến với ta.
Thạch Lâm tiên cưỡi trên mình hổ, thấy Võ Trúng Phong thì cả cười mà rằng:
− Ngươi đấy à? Chắc ngươi chưa quên mấy hòn đá ta tặng ngươi hôm nọ chứ?

Võ Trúng Phong chẳng nói chẳng rằng, giơ đòn gánh lên đánh Thạch Lâm tiên. Thạch Lâm tiên cũng đưa bát xà mâu ra đón đỡ. Hai người đánh nhau một trận rất kịch liệt. Võ Trúng Phong sợ đánh lâu, Thạch Lâm tiên lại giở thuật ném đá ra chăng, bèn né mình tránh khỏi mũi mâu, rồi quay luôn đòn gánh nhằm đầu Thạch Lâm tiên đánh miếng “độc mãng xà”, Thạch Lâm tiên vội vàng từ trên lưng hổ nhảy xuống đất tránh thoát, rồi lần một viên đá ném thẳng vào mặt Võ Trúng Phong, Võ Trúng Phong nhanh mắt giơ đòn gánh lên đỡ trúng hòn đá rơi xuống đất. Nhưng Thạch Lâm tiên lại ném tiếp bốn, năm hòn nữa, làm Võ Trúng Phong đỡ không kịp phải chạy vào trong nhà. Thạch Lâm tiên cũng đuổi theo vào đến nơi thì Võ Trúng Phong đã nhanh chân bước vào buồng đóng cửa lại.
Thạch Lâm tiên toan phá cửa buồng xông vào bắt, chợt thấy chiếc hòm tự nhiên có tiếng lịch kịch ở trong thì lấy làm lạ, nghĩ bụng:
− Chắc là có tên yêu tiên quái hiệp nào rúc trong này đây. Ta phải bắt lấy để mang về cho Lý Toét Lão tổ xử tội mới được.
Nghĩ vậy, Thạch Lâm tiên tay bắt quyết miệng lẩm bẩm mấy câu thần chú, bỗng có tiếng sét đánh chiếc hòm vỡ tan ra, Lề Cang Chân nhân ngồi ở trong sợ chết ngất đi. Thạch Lâm tiên thấy vậy cả mừng, vừa toan lấy dây trói lại, thì Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong ở trong buồng nhảy ra quát to lên rằng:
 − Không được hỗn với Chân nhân ta.

Nói xong, Võ Trúng Phong cầm đòn gánh phang tới. Thạch Lâm tiên không muốn đánh nhau lâu, bèn lần lưng lấy một viên đá xanh ném vào giữa mặt Võ Trúng Phong. Võ Trúng Phong vội vàng giơ bảo bối lên đỡ, hòn đá đụng phải bảo bối tự nhiên hoá thành mảnh giấy vụn rơi xuống đất. Thạch Lâm tiên thấy vậy sợ toát mồ hôi, trưng mắt nhìn xem bảo bối của Võ Trúng Phong cầm là thứ gì lại lợi hại đến thế. Khi nhận biết bảo bối ấy là một cái xiêm thì cả sợ, nghĩ bụng:
− Nguy tai! Nguy tai! Cái xiêm kia vốn là của Thị Mịch tiên cô đã luyện hàng mấy trăm lần với các tiên ông. Nay tên Võ Trúng Phong mượn được, không khéo tính mệnh ta nguy mất.
Nghĩ vậy rồi sợ bảo bối úp chụp lấy đầu, Thạch Lâm tiên bèn co cẳng chạy biến.

Số là Võ Trúng Phong bị Thạch Lâm tiên ném đá phải bỏ chạy vào trong buồng gặp Thị Mịch tiên cô đang thắt giải xiêm. Võ Trúng Phong trông thấy mới sực nhớ ra rằng chiếc xiêm của Thị Mịch tiên cô là một vật rất quý, có nhiều phép nhiệm mầu, mỗi khi phất lên chẳng những phá tan được pháp thuật của bên địch, nếu khi tung lên lại có thể úp lấy đầu quân địch, dù người tu luyện lâu năm đến đâu cũng khó lòng tránh thoát. Chính Võ Trúng Phong trước kia đã bị Thị Mịch tiên cô tung xiêm lên bắt hai lần, và lôi về Tiểu Vạn thành ép duyên phu phụ.
Đến nay nhân lúc kế cùng lực kiệt, Võ Trúng Phong phải nói với Thị Mịch tiên cô mượn chiếc xiêm ấy để ra phá phép ném đá của Thạch Lâm tiên và để phò Lề Cang Chân nhân khôi phục lại cơ đồ. Thị Mịch tiên cô nói:
− Phu quân ôi! Thiếp cũng chẳng tiếc gì chiếc xiêm, nhưng mệnh giời đã tuyệt động Hồng Kê, phu quân dù cố sức giúp Lề Cang Chân nhân, thiếp e rằng chỉ nhọc lòng vô ích mà thôi. Chi bằng phu quân ở lại đây sớm hôm bầu bạn cùng thiếp, chúng ta như đũa có đôi, như cá có nước như mây có rồng, chẳng hơn đem thân ra nơi chiến địa đeo lấy cái khổ vào mình hay sao?
Thị Mịch tiên cô nói xong, liếc khoé mắt toét ba vành đưa tình mấy cái, khiến Võ Trúng Phong say sưa ngây ngất, đến gần Thị Mịch tiên cô vuốt ve mà rằng:
− Hiền thê ơi! Kẻ nam nhi đứng ở trên đời há có sợ gì súng đạn? Anh nay giúp Lề Cang Chân nhân giết loài loạn tặc, cũng mong một ngày kia thành công thì đôi ta sẽ được mở mặt mở mày. Nào ngờ đâu tụi Phong Hoả là những tay pháp thuật cao cường chúng ăn trộm thuốc tiên, toàn thắng trận gậm cầu, phá vỡ trận Mê hồn, khiến Nguyên soái Đoản Kiều phải vác sừng trốn chạy. Còn Lề Cang Chân nhân hiện đang ẩn núp trong hòm, tình cảnh rất là khổ sở. Nay ta nỡ lòng nào lại bỏ không cứu sao đành? Thôi em cứ cho anh mượn pháp bảo, nếu sau này thành công thì phu quý phụ vinh, chúng ta cùng nhau trăm năm hưởng lộc.

Thị Mịch tiên cô không biết tính sao, đành để cho Võ Trúng Phong lột lấy bảo bối. Võ Trúng Phong vừa lột xong bảo bối của Thị Mịch tiên cô thì nghe bên ngoài có tiếng hét, vội mở cửa chạy ra thấy Thạch Lâm tiên đã phá vỡ hòm và toan trói Lề Cang Chân nhân, bèn giơ bảo bối ra đuổi Thạch Lâm tiên và vực Lề Cang Chân nhân dậy. Thấy Lề Cang Chân nhân còn mê man, Võ Trúng Phong khẽ gọi:
− Chân nhân lai tỉnh! Chân nhân lai tỉnh!
Lề Cang Chân nhân dần dần tỉnh lại, thở dài nói với Võ Trúng Phong rằng:
− Hảo hớn ơi! Có lẽ là tại số mệnh của bỉ nhân xui ra thế. Chi bằng nay ta viết biểu đầu hàng, Hảo hớn đưa bỉ nhân đến tạ tội với Nguyễn Tề Tam, cam đoan từ nay không “lia” kiếm tiên quái hiệp ra để rắc hại cho người đời nữa thì mới yên thân được. Nếu không, cơ đồ của bỉ nhân bao năm gây dựng sẽ tiêu mất cả thì thật là đáng tiếc! đáng tiếc!

Võ Trúng Phong nói:
− Tiểu tướng xin tuân lệnh. Chân nhân cứ viết hàng biểu đi, tiểu tướng sẽ phò Chân nhân đến ra mắt Nguyễn Tề Tam, còn Nguyên soái Đoản Kiều không biết ngày nay chui rúc ở phương mô?
Lề Cang Chân nhân nói:
− Có lẽ Nguyên soái Đoản Kiều bị bắt và bị cưa cụt mất sừng rồi cũng nên.
 Nhân lúc cảm xúc, Lề Cang Chân nhân ngâm:
Thương thay một đấng anh tài,
Sa cơ một phút, ôi thôi! cụt sừng!
Ngâm xong Lề Cang Chân nhân than tiếc mãi không thôi.
Đó thật là:
Thế gian để một trò cười,
Trị người chẳng bõ khi người trị ta.
Người ta có thơ than rằng:
Bổ phải mình, chẳng bổ được người,
Trong làng báo… bổ loạn như rươi!
Những bầy quỷ, quái như tôm tép,
Thả sức ra thì được mấy hơi.


============================================
                         ÔNG LÊ CƯỜNG VỚI LỀ CANG CHÂN NHÂN
 Hôm vừa rồi chúng tôi xuống thăm Hà Nội báo. Ông Lê Cường chủ nhiệm kiêm quản lý báo ấy có nhờ chúng tôi cải chính với độc giả Bắc Hà rằng: Ông đánh nhau với ông Nguyễn Tường Tam ở báo Phong hoá trận nào cũng được, chứ không phải chui vào bồ. Còn ông Lê Tràng Kiều vẫn chưa bị cưa sừng, và ông Vũ Trọng Phụng không lột xiêm Thị Mịch. Ông Lê Cường còn đe chúng tôi rằng nếu không cải chính, ông sẽ kiện tôi tại toà án quốc tế La Hay về tội thông tin…vịt.
Vậy chúng tôi cải chính để các bạn đọc Tam động kiếm tiên biết rằng: Ông Lê Cường đã thắng được ông Nguyễn Tường Tam nhiều trận chứ không phải chui vào bồ lần nào, ông Lê Tràng Kiều vẫn chưa bị cưa sừng và ông Vũ Trọng Phụng không lột xiêm Thị Mịch.
Chỉ có Lề Cang Chân nhân là chui vào bồ, Đoản Kiều nguyên soái bị cưa mất sừng và Giang hồ hảo hớn Võ Trúng Phong lột xiêm Thị Mịch mà thôi.
Chúng tôi cải chính rồi đấy, ông Lê Cường đã bằng lòng chưa?
VĂN VIỆT TỬ
 Đặc phái viên Bắc Hà  tại mặt trận Phong Hoả − Hồng Kê
=================================================

 

Hồi thứ VI
Tản Dân động quái tiên nổi loạn
Phong Hoả thành quần hiệp dương oai

Từ ngày động Phong Hoả đề binh đánh động Hồng Kê, phá vỡ trận Mê hồn, Nguyên soái Đoản Kiều và quân sư Lưu Trọn Lừa kẻ ôm sừng người ôm đầu trốn chạy, Lề Cang Chân nhân phải viết biểu cầu hoà. Lũ quỷ tiên quái hiệp bị Bình Minh tiên bắt về cho Lý Toét Lão tổ chém chết quá nửa, thì dân trí cũng hơi được mở mang đôi chút.

Lũ quỷ tiên quái hiệp tuy bị chết nhiều, nhưng chưa tuyệt giống, chúng lại quay về tụ tập ở động Tản Dân, phun nọc độc ra khắp Hà Thành, khiến cho óc người đời lại bị một phen mê loạn.

Viên chủ tướng động Tản Dân họ Võ tên Đình Luông, vốn trước là con lợn lòi, được đức Phật tổ thu làm đồ đệ, tu luyện ngót trăm năm đã hoá được tinh người. Một hôm đức Phật tổ đi dự phiên Hội đồng thường niên của hội Bụt ốc Ái hữu, Võ Đình Luông nhân lúc ngồi buồn, rủ mấy đạo hữu là Nguyễn Đỗ Nát quỉ tiên và Nghiêm Hà Lạm quái hiệp cùng nhau đánh cắp mấy thứ pháp bảo của đức Phật tổ rồi trốn xuống trần. Khi đi lang thang đến phố Lông Bông, cả ba cùng trông thấy một cái động đỏ lòm, cạnh động lại có một cái hang đen kịt, Đỗ Nát quỷ tiên ngắm nghía hồi lâu rồi nói với Võ Đình Luông và Hà Lạm quái hiệp rằng:
− May lắm thay! May lắm thay! Chúng ta đang không nơi trú ẩn, nay Phật, Trời run rủi cho chúng ta tìm thấy chốn này, thật là một sự tình cờ hiếm có. Thưa hai hiền huynh, đây là chốn thuỷ giao long tế, khí vượng phong thoát, tiến lên có thể mưu đồ nghiệp lớn, lui xuống có thể phú quý vinh hoa, xin hai hiền huynh cùng đệ thử vào trong động xem xét hình thế, rồi chúng ta sẽ ở lập nghiệp lâu dài.

Võ Đình Luông và Nghiêm Hà Lạm nghe nói cả mừng, cùng nhau chui vào trong động. Thế là từ đấy Võ Đình Luông tiên ông, Nguyễn Đỗ Nát quỉ tiên và Nghiêm Hà Lạm quái hiệp cùng nhau sửa sang lại động, tu luyện pháp thuật, xưng hùng xưng bá một phương.

Một ngày kia, Võ Đình Luông tiên ông đang ngồi uống thử chén thuốc độc của mình để thí nghiệm xem có lợi hại không thì bỗng có một tiểu yêu vào báo rằng:
− Thưa tiên trưởng, bên ngoài có một lũ tiên ông xin vào yết kiến.

Võ Đình Luông tiên ông nghe báo, truyền tên tiểu yêu ra mời lũ tiên ấy vào. Khi lũ tiên vào trông thấy Võ Đình Luông thì chắp tay vái dài mấy cái mà bẩm rằng:
− Thưa tiên trưởng, chúng tôi là lũ yêu tiên quái hiệp, trước giúp Nguyên soái Đoản Kiều gác trận Mê hồn, nhưng chẳng may bị Lý Toét Lão tổ phá vỡ và bị Bình Minh tiên lùng bắt, chúng tôi phải chui rúc vào các bờ bụi mới được toàn mạng đến đây, mong tiên trưởng rộng lòng dung nạp.

Nói xong lũ yêu tiên quái hiệp đều mếu xệch miệng gầu trông rất thương hại. Võ Đình Luông tiên ông thấy thế, trong lòng bùi ngùi cảm động, an ủi lũ yêu tiên quái hiệp hồi lâu rồi nói rằng:
− Chư tiên hãy cứ yên lòng ở đây luyện thêm pháp thuật, và “lia” kiếm của mình ra cho thiên hạ biết tài biết mặt, rồi ít lâu nữa ta sẽ báo thù cho.

Lũ yêu tiên quái hiệp nghe nói, thảy đều vui mừng hớn hở, đều vái tạ Võ Đình Luông tiên ông rồi kéo nhau cả lại sau động.

Khi lũ yêu tiên quái hiệp đã kéo nhau vào sau động rồi, Võ Đình Luông tiên ông bèn nói với Đỗ Nát quỷ tiên và Hà Lạm quái hiệp rằng:
− Tụi Phong Hoả thật là đáng ghét! Chúng cậy có pháp thuật cao cường, không kiêng nể gì ai hết. Nhân dịp này ta phải ra tay cho chúng biết, kẻo chúng cứ được thể khinh nhờn mãi lũ “kiếm tiên” chúng ta. Hai hiền hữu nghĩ sao?
Đỗ Nát quỷ tiên nói:
− Hiền huynh dạy rất phải. Chúng tôi xin hết sức giúp đỡ hiền huynh để trừ hậu hoạn, dù phải bỏ thân ở nơi chiến địa cũng chẳng dám từ.
Võ Đình Luông tiên ông nghe nói mừng rỡ, bèn gọi lũ yêu tiên quái hiệp lên trướng bảo rằng:
− Chư tiên trước kia đã giúp Nguyên soái Đoản Kiều để trừ loạn tặc, chẳng may bị bại trận đến đây, ta chẳng hẹp hòi gì mà không thu dụng. Nay ta muốn cất quân đánh động Phong Hoả, trước là tiệt trừ kẻ hay rêu rao đến công việc luyện kiếm…tiên của chúng ta, sau là báo thù cho Lề Cang đạo hữu. Vậy chư tiên hãy cùng ta đồng tâm hiệp lực phen này, nếu thành công được thì không khi nào ta dám quên công trạng của chư tiên.
Lũ quỷ tiên nghe nói thẩy đều mừng rỡ, hoa chân múa tay mà rằng:
− Thưa tiên trưởng, chúng tôi lại sẽ xin cố sức giúp tiên trưởng một phen để trừ tiệt nạn Phong Hoả.
Võ Đình Luông tiên ông bèn kiểm điểm binh mã trong động Tản Dân, thấy binh hùng tướng mạnh thì cả mừng, bèn chia ra hai đại đội, đội thứ nhất lấy tên là “Tiểu thuyết thứ mười bảy” do Nguyên soái Ngốc Giao quản đốc, yêu tiên có: Lề Văn Trưởng, Nguyễn Con Hoang, Hà Lạm quái hiệp dẫn binh mã lên vườn Bách Thảo hạ trại, để đánh vào phía đông động Phong Hoả.
Đội thứ nhì lấy tên là “Vô ích Hữu” do Nguyên soái Hiển Chỳ quản đốc, yêu tiên thì có Đãng Tử tiên, Mi-cô-lô quái tiên và Đỗ Nát quỷ tiên dẫn đại đội binh mã kéo đến đóng ở hồ Trúc Bạch để đánh vào phía tây động Phong Hoả. Còn Võ Đình Luông tiên ông và vợ là Thị Hụi yêu bà thì tự dẫn lũ yêu tiên quái hiệp mới ra hàng, đến khiêu chiến trước, lừa cho quân Phong Hoả ra khỏi thành rồi thì hai đạo binh kia ùa vào cướp lấy.
Đó thật là:
Mưu trừ những kẻ dèm pha để
Kiếm tiên, kiếm hiệp, kiếm tiền tiêu.

Lại nói về động Phong Hoả từ ngày nhờ Đạt Ma và Lý Toét Lão tổ phá vỡ trận Mê hồn cứu chủ tướng Nguyễn Tề Tam và các tướng ra, thì quân sư Tứ Tử Ly độn thổ xuống âm phủ chơi quần vợt với Diêm Vương, còn chủ tướng Nguyễn Tề Tam ngày ngày lên vườn Bách Thảo hiện nguyên hình là con Đông Sơn vào chuồng bắt rận cho đồng loại, Tù Mờ tiên thì xuống Nam Thành bắt chim Mốc Thếch tiên cô, Lê La tiên lúc buồn đi ngồi lê la ở đầu đường xó chợ kể chuyện ông Chân tìm được của, Khái Huyết tiên chiều chiều gánh hoa héo đi bán cho các thiếu nữ lỡ thời, Hàn Đãi Đá vào rừng chọn đá cho Thạch Lâm tiên luyện thêm pháp bảo, còn các tướng và quân sĩ thì rủ nhau đến những nơi Gậm Cầu Chợ Gạo chơi bời, thật là một cảnh thái bình vô sự.

Một hôm chủ tướng Nguyễn Tề Tam đang ngồi một mình than thở vì thu đến phải chịu lạnh lùng, bỗng có một tên quân canh thành hốt hoảng chạy vào báo rằng:
− Thậm cấp! Thậm cấp! Chí nguy! Chí nguy! Có Tản Dân động cử đại hùng binh xâm lược biên thuỳ, tiểu tốt tốc lai phi báo.

Chủ tướng Nguyễn Tề Tam nghe báo, giật mình đánh thót một cái, mắt trợn ngược, tóc dựng đứng, trỏ về phía Tản Dân động mắng lớn lên rằng:
 − Bớ Võ Đình Luông tặc tử! Ta với ngươi không thù không oán, sao ngươi dám mang lũ tiểu yêu đến xúc phạm oai…Đông Sơn! Phen này ta phải ra tay cho mi biết.

Nói xong sai Khái Huyết tiên phải lập tức đáp ô tô tốc hành Hanoi – Chín Suối xuống điện Diêm Vương mời ngay quân sư Tứ Tử Ly lên bàn cách đối phó.

Ngay chiều hôm ấy, Quân sư Tứ Tử Ly lên đến nơi vào trướng vấn an chủ tướng Nguyễn Tề Tam, chủ tướng Nguyễn Tề Tam cả mừng nói:
− Động Tản Dân vừa mang binh đến khiêu chiến, quân sư bàn nên đối phó bằng cách nào?
Quân sư Tứ Tử Ly nghe nói thì lo sợ mà rằng:
− Động Tản Dân không như động Hồng Kê, vì có rất nhiều yêu tiên quái hiệp pháp thuật cao cường. Ta phải mang toàn lực ra đánh với động này mới được. Bởi vì ở đấy có hai tên: một là Đỗ Nát quỷ tiên, tự là Hi-ef Di-nef, hắn có môn khôi hài rất khá đã một lần hắn nói một câu mà con rùa thần của Cống Tiễu tiên ông phải rụt cổ vào cười sằng sặc, và một lần nữa hắn lại khôi hài câu nữa, làm cho con gấu hai mõm của Lê Đại Gàn tiên ông cười lăn ra chết; hai là Hà Lạm quái hiệp, quen sử chiếc dọc tẩu nặng ngót nửa cân lúc múa lên như trò múa rối và phun trong mồm ra một thanh bảo kiếm chém đầu quân địch dễ như bỡn. Đó là chưa kể Ngốc Giao Tiên, Hiển Chỳ tiên, Mi-cô-lô tiên là những tay rất lợi hại.

Chủ tướng Nguyễn Tề Tam sợ thất sắc bèn hỏi quân sư Tứ Tử Ly rằng:
− Động Phong Hoả ta vừa trải qua một cơn binh biến. Hiện nay lương thực ít, quân sĩ nhọc mệt, mà động Tản Dân quân sĩ tinh nhuệ, lương thực đầy đủ, lại được những tay kiếm tiên lợi hại giúp đỡ thì phần đại bại động ta đã cầm chắc. Vậy quân sư có kế gì không?
Quân sư Tứ Tử Ly nói:
− Đêm qua khi ngồi uống “Banh banh cốt mìn” với Diêm Vương dưới âm phủ, tôi thấy một ngôi sao rất sáng từ phía đông bay sang phía tây rồi biến mất. Cứ như điềm ấy, thì nhân tài ẩn ở phương tây. Nay chủ tướng phải mau mau cho treo bảng và lập một cái lôi đài để chọn lấy những tay hiệp sĩ mới có thể chống nổi được với động Tản Dân.

Chủ tướng Nguyễn Tề Tam khen phải, bèn một mặt sai lập lôi đài và một mặt viết bảng cầu hiều treo ở cửa động Phong Hoả: nếu ai võ nghệ tinh thông sẽ biếu sách của văn đoàn. Chẳng bao lâu lôi đài đã lập xong, hiệp sĩ bốn phương kéo đến đông như kiến. Ngày 23 tháng mạnh thu niên hiệu Bảo Đại thứ mười (tây lịch là năm 1935 sau Thiên Chúa giáng sinh), chủ tướng Nguyễn Tề Tam thân ra chòi cao xem tỉ thí.
Khi hiệp sĩ đã đến đông đủ cả rồi, thì bỗng từ trên trời có tiếng loa truyền xuống rằng:
− Hỡi các hiệp sĩ! Nay các yêu tiên quái hiệp trong động Tản Dân nổi loạn, đến xâm phạm bờ cõi ta. Vậy ta phải yết bảng triệu các vị đến đây, lên tỉ thí trên lôi đài, nếu vị nào tài năng xuất chúng ta sẽ trọng dụng.

Các hiệp sĩ nghe nói, cùng nhau mừng rỡ, ai cũng lăm le lên đài tỉ thí cho tỏ mặt anh hùng.
Đó thật là:
Nhờ tay quần hiệp trừ yêu quái,
Làm tụi kiếm tiên khó kiếm tiền
Người ta có thơ vịnh rằng:
Lớp ấy tuyệt rồi lớp khác ra,
Việt Nam sao có lắm yêu, ma!
Bao giờ cho nước văn minh được
Để lũ yêu tiên về cái nhà …bò 
(Câu thơ này thừa một chữ, nhưng cũng chả sao!)

 

Hồi thứ VII
Đả lôi đài, Ba Vành nương nương phô tài năng xuất chúng;
Phun bạch kiếm, Xã Xệ đồng tử khoe pháp thuật siêu quần

Lại nói về chủ tướng Nguyễn Tề Tam vừa bắc loa lên nói dứt lời, thì từ dưới đài có một người nhảy vọt lên vòng tay nói rằng:
− Thưa các hiệp sĩ! Vị nào có thực tài xin mời lên đây cùng tôi tỉ thí.
Mọi người ngẩng trông lên thì đó là Nguyên Výy. Nguyên Výy người ở động Khâm Thiên trong hang Bạch Lộ, trước có 12 chân cả thảy, nhưng bị Khái Huyết tiên cưa mất 10, nay chỉ còn 2. Nguyên Výy vừa nói dứt lời bỗng có một người nhảy phắt lên đài quát to lên rằng:
 −  Có ta đây, ngươi chớ khoe tài.
Nguyên Výy vội nhìn xem ai thì ra người ấy họ Hoãng tên Huỳ, vốn là tay bán thịt chó chết ở xứ Đông Pháp. Hoãng Huỳ vừa nhảy lên đài liền hươi quyền xông đến đánh liền. Nguyên Výy dùng miếng “quặp đuôi” tránh thoát và dùng luôn miếng “ngỗng trắng” đánh lại. Hoãng Huỳ cũng vội vàng né mình theo thế “xả thịt chó” nằm lăn ra và giơ tay lên nắm lấy chân Nguyên Výy, trổ hết cân lực, ném bổng Nguyên Výy lên cao đến ba nghìn thước, khi Nguyên Výy rơi xuống trúng ngay một vị hiệp sĩ đang ngồi ngủ gật ở dưới gốc cây. Vị hiệp sĩ ấy giật mình mở choàng mắt ra, cả giận cất giọng lè nhè như giọng người say rượu hỏi Nguyên Výy rằng:
− Sao ngươi dám đạp chân vào đầu ta.
Nguyên Výy lúc ấy đau quá không nói được câu nào, hai mắt trợn ngược, mồm há hốc. Vị hiệp sĩ ấy định thần nhìn kỹ một lượt vội kêu to lên rằng:
− Trời ơi! Ngô huynh! Ngô huynh làm sao thế?
Lay gọi một hồi Nguyên Výy mới dần dần tỉnh lại, khi trông rõ vị hiệp sĩ ấy thì rên rỉ mà rằng:
− Kìa! Trương hiền đệ! Sao hiền đệ lại ở chốn này?
Vị hiệp sĩ ấy nói:
− Thưa ngô huynh! Tiểu đệ nghe thấy Nguyễn Tề Tam lập lôi đài cầu hiệp sĩ nên đến tỉ thí, khi đi qua đây, nhân khí trời nóng bức, tiểu đệ ngồi nghỉ và uống mấy chén rượu, lúc ngà ngà say, thiu thiu ngủ gật. Chẳng hay ngô huynh tại sao lại rơi xuống đầu tiểu đệ làm vậy?
Nguyên Výy bèn đem việc bị Hoãng Huỳ tung bổng lên ba nghìn thước cao, thuật lại một lượt. Vị hiệp sĩ ấy nghe xong đùng đùng nổi giận mà rằng:
− Đáng ghét thay quân bán thịt chó chết! Vừa hôm nọ anh em ta vào uống rượu hàng nhà ngươi, mà nhà ngươi nỡ vô tình tung hiền huynh ta lên trời suýt nữa thì bỏ mạng, thù này ta phải báo mới xong.
Nói rồi, quay lại bảo Nguyên Výy rằng:
− Thưa ngô huynh! Xin ngô huynh cứ ngồi đây an nghỉ, để tiểu đệ đến báo được thù này mới nguôi cơn giận.
Vị hiệp sĩ ấy nói xong cắm đầu chạy một mạch đến lôi đài.
Vị hiệp sĩ ấy vốn là cháu bảy mươi đời cụ Trương Phi, tên là Tỷu, tính nóng như lửa, vốn là anh em kết nghĩa của Nguyên Výy, người tuy thấp loắt choắt nhưng sức khoẻ vô cùng, quen sử một lưỡi tầm sét nặng ngót một cân, mỗi khi múa lên thì muôn người khôn địch. Khi chạy đến bên lôi đài, Trương Tuỷ quát to lên một tiếng, nhảy vọt lên đài bảo Hoãng Huỳ rằng:
− Ngươi đã cả gan dám tung anh ta lên trời, nay ta đến báo thù. Biết điều xuống đài cho mau, kẻo lúc ta đã ra tay thì tan xương nát thịt!
Hoãng Huỳ nghe nói cười ha hả mà rằng:
− Chú bé đừng nói khoác kẻo lại mất mạng toi. Ta tha cho về bảo người lớn ra đây tỉ thí, chứ sức chú được là bao cũng lên đây làm bẩn tay ta.
Trương Tỷu cả giận, gầm lên một tiếng dùng thế “chổng ngược binh” đá cả hai chân vào mắt Hoãng Huỳ, Hoãng Huỳ mỉm cười cũng dùng thế “chả chó rựa mận” tránh thoát, nhưng chưa kịp trở tay, thì nhanh như cắt, Trương Tuỷ dùng luôn thế “Tản Đà ngũ chai bố” xông tới hất Hoãng Huỳ lăn xuống chân đài. Tiếng vỗ tay ở dưới đài lừng nổi lên như sấm dậy. Trương Tỷu thích chí, vòng tay trông xuống đài nói:
− Nào, còn vị nào xin mời lên đây so tài cao thấp.
Nói dứt lời, bỗng có tiếng oang từ dưới đài văng vẳng đưa lên:
− Có ta đây!
Tức thời một người con gái nhảy vọt lên đài, đến trước mặt Trương Tỷu ỏn ẻn nói:
− Ngươi có dám cùng ta tỉ thí chăng?
Trương Tỷu nhìn kỹ, thấy người con gái ấy môi son má phấn, mắt loe ba vành, thì cười tình mà hỏi rằng:
− Nàng là ai vậy chứ?
Người con gái nói:
− Ta là trưởng nữ Lý Toét Lão tổ ở Thôn Dân sơn, tự là Ba Vành Nương Nương.
Trương Tỷu vòng tay nói:
− Tôi có lời kính chào Nương Nương, xin Nương Nương hãy lui về núi theo Lão tổ tu luyện, chớ nên vướng đến việc phàm trần, kẻo lúc dụng võ thì không ai ngại cả, lỡ ra nhỡ quá tay xúc phạm đến mình Nương Nương chăng thì thật là bất tiện lắm.
Ba Vành Nương Nương nói:
− Trương Tỷu! Ta cho ngươi cứ ra tay.
Trương Tỷu nói:
− Nếu Nương Nương cứ cố chấp thì xin chớ trách ta là kẻ vô tình.
Nói xong đứng thủ thế chờ Ba Vành Nương Nương. Ba Vành Nương Nương bèn dùng miếng “Lý Toét bái Thành Hoàng” đánh tới. Trương Tỷu nhanh mắt cúi đầu theo thế “Ngả vọ” vờ ngã soài ra tránh khỏi. Ba Vành Nương Nương dùng sức quá mạnh lúc kìm lại không được nên lao người nhảy qua đầu Trương Tỷu và suýt ngã xuống dưới đài. Ba Vành Nương Nương nổi nóng dùng luôn thế “thoát xiêm nhượng vị” úp lấy đầu Trương Tỷu. Thế này rất hiểm độc khiến Trương Tỷu tối tăm cả mặt mũi không biết đường nào mà tránh, lúng túng mãi không gỡ được ra, bị ngay Ba Vành Nương Nương đá ngã xuống đài. Tiếng vỗ tay dưới đài lại nổi lên như sấm. Trương Tỷu bị ngã đồng kềnh dưới đài, lúc lổm ngổm bò dậy được thì xấu hổ lẩn vào đám đông người chuồn thẳng.
Ba Vành Nương Nương đứng trên đài vòng tay nói:
− Còn vị nào nữa xin lên đây tỉ thí với ta.
Hỏi năm, bảy lần không có ai dám lên tỉ thí, Ba Vành Nương Nương mỉm cười nhảy xuống đài đến trước mặt chủ tướng Nguyễn Tề Tam và quân sư Tứ Tử Ly thi lễ mà rằng:
− Ngu muội xin kính chào hai thế huynh.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam và quân sư Tứ Tử Ly cùng đứng dậy đáp lễ, rồi vui mừng nói:
− Ô! Hiền tỉ! Hiền tỉ chẳng ngại đường xá xa xôi xuống đây giúp lũ đệ, lũ đệ thật lấy làm cảm kích vô cùng.
Nói rồi Chủ tướng Nguyễn Tề Tam thân kéo ghế mời Ba Vành Nương Nương ngồi. Ba Vành Nương Nương nói:
− Ngu muội bấy lâu vẫn khoá kín cái xuân, tu trong động. Nhân một hôm thân phụ gọi ngu muội đến nói rằng ngài bấm độn biết lũ yêu tiên bên động Tản Dân nổi loạn và bên ấy có nhiều tay yêu quái pháp thuật cao cường, động ta khó lòng địch nổi. Ngài có cho ngu muội cùng Xã Xệ tiên đồng xuống giúp chư hiền huynh tiệt trừ những quân yêu tiên quái kiếm để chúng khỏi gieo hại vào óc người đời. Ngu muội cùng Xã Xệ tiên đồng vâng lệnh đằng vân đến đây, may đâu lại vừa gặp lúc chư hiền huynh lập lôi đài kén người tài giỏi, thật là tiện dịp để ngu muội thi thố một chút tài năng mà bấy lâu học tập.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam và quân sư Tứ Tử Ly rất cảm động, đều giơ tay lên giời vái lại Lý Toét Lão tổ rồi hỏi Ba Vành Nương Nương rằng:
− Thưa hiền tỉ, chẳng hay, còn Xã Xệ đạo hữu hiện nay ở nơi nào?
Ba Vành Nương Nương nói:
− Xã Xệ đạo hữu hiện còn ở ngoài nhà trọ, để ngu muội xin gọi lại đây.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam nói:
− Hiền tỉ bất tất phải nhọc công, để tiểu đệ sai người đi mời đến đây cũng được.
Rồi chủ tướng Nguyễn Tề Tam gọi một tên quân lên bảo rằng:
− Ngươi phải lập tức đi tìm khắp các quán trọ hễ thấy vị nào to béo, tay cầm chiếc quạt giấy đầu có một cái tóc như lò xo chổng ngược lên trời thì phải lập tức mời về đây.
Tên quân vâng lệnh lui ra.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam say sưa nhìn Ba Vành Nương Nương rồi nói khẽ với Quân sư Tứ Tử Ly rằng:
− Quân sư ơi! Sao lại có con người tuyệt đẹp nhường kia, nhan sắc khiến lòng ta rạo rực, tâm hồn ngây ngất đê mê. Thật ai đã khiến ta cảm…

Quân sư Tứ Tử Ly nghễnh ngãng không hiểu chủ Tướng Nguyễn Tề Tam nói gì, sau nghe thấy tiếng “cảm”, thì sợ hãi hỏi rằng:
− Trời ơi! Chủ tướng bị cảm ư? Chủ tướng bị cảm từ bao giờ? Chủ tướng bị cảm nặng, hay nhẹ?
Và cuống quít gọi quân lấy gừng đánh gió ầm lên.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam vội xua tay nói:
− Không! Không! Ta không bị cảm! Ta chỉ…
Rồi nghẹn ngào không nói nên lời. Ngay lúc ấy thì Xã Xệ tiên đồng đã vào đến trước mặt ba người. Quân sư Tứ Tử Ly mừng rỡ mà rằng:
− Đạo hữu cũng vâng lời sư phụ xuống giúp chúng tôi. Thật là hân hạnh! Hân hạnh!
Xã Xệ tiên đồng bắt tay mọi người rồi nói:
− Thưa các vị đạo hữu, tôi ngày ngày ở núi tu luyện thì cũng buồn nên có xin với sư phụ xuống đây, để giúp các đạo hữu, để trừ loài yêu quái.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam đứng dậy mời Ba Vành Nương Nương và Xã Xệ tiên đồng về sảnh đường, rồi sai quân giết voi mổ ngựa làm tiệc thết đãi.

Trong khi yến tiệc, chủ tướng Nguyễn Tề Tam luôn luôn đưa mắt liếc Ba Vành Nương Nương và thỉnh thoảng lại ấp tay lên ngực như để vỗ về an ủi trái tim đang rạo rực bồi hồi.
Còn Ba Vành Nương Nương thì vô tình không biết, thỉnh thoảng nàng chỉ liếc cặp thu ba nhìn chủ tướng mà cười tít lên.
Đến nửa chừng tiệc, đôi má phấn của Nương Nương đã hây hây nhuộm mùi hồng phớt, đôi mắt càng long lanh như khoé phượng. Chủ tướng Nguyễn Tề Tam càng bàng hoàng tấc dạ…

Mọi người chén tạc chén thù mãi đến lúc mặt trời xế bóng. Ba Vành Nương Nương say rượu quá, chủ tướng Nguyễn Tề Tam phải gọi lũ a hoàn vực vào phòng riêng an nghỉ. Khi mọi người đã đâu về đấy cả rồi, chủ tướng Nguyễn Tề Tam bèn thực tình kể chuyện cho quân sư Tứ Tử Ly nghe, rồi thổn thức nói:
− Quân sư ơi! Nếu ta không lấy được Ba Vành Nương Nương thì ta thề sẽ “đoạn tuyệt” hẳn với tình duyên, đành suốt đời cam chịu “lạnh lùng”, về núi tu luyện chứ cũng chẳng dấn thân vào “đời mưa gió” nữa làm chi!

Quân sư Tứ Tử Ly giơ tay lên bấm độn một lúc, rồi cười hà hà nói với chủ tướng Nguyễn Tề Tam rằng:
− Thật là đại phúc! đại phúc! Nếu chủ tướng được kết duyên cùng Nương Nương thì chẳng những ta phá tan được động Tản Dân mà thôi, lại còn có thể khiêu chiến với hết các báo ở Đông Dương này cũng không sợ nữa. Vả lại Nương Nương vốn người tỉnh Hà Đông mà bản mệnh thì cầm tinh sư tử, còn chủ tướng cầm tinh Đông Sơn (khỉ độc). Sư tử với Đông Sơn phối hợp thì còn gì hay bằng.

Chủ tướng Nguyễn Tề Tam nghe quân sư Tứ Tử Ly nói, lòng mừng hớn hở, rồi đứng dậy bắt tay quân sư Tứ Tử Ly và lẻn đến phòng của Ba Vành Nương Nương.

Ba Vành Nương Nương từ lúc a hoàn vực về phòng riêng, thấy mình say rượu quá, bèn lần trong lưng ra lấy viên thuốc giải rượu hoà vào nước uống, một lúc sau thì tỉnh, bèn một mình lững thững ra ngoài vườn ngoạn cảnh. Bấy giờ trời đã tối hẳn, mảnh trăng thượng tuần treo lơ lửng trên đầu ngọn tre, toả xuống thứ ánh sáng êm dịu và trong suốt như pha lê, chiếu vào mắt Ba Vành Nương Nương, làm nổi hẳn ba chiếc vành son lẫn trong đôi mắt biếc, lại càng tăng vẻ nõn nường của con người ngọc, khiến ai trông thấy cũng phải ngây ngất thẫn thờ.

Ba Vành Nương Nương đang lững thững trong vườn hoa, chợt Lê La tiên ông đi qua trông thấy thì ngây người ra đứng ngắm một hồi, rồi gật gù ngâm:

Mắt như nước lặng in trời,
Cánh đào thắm nét miệng cười như mơ.
Khiến ta lòng những say sưa,
Phải người ta vẫn đợi chờ đây chăng?
(Mấy câu thơ này của Thế Lữ).

Ngâm xong, Lê La tiên ông toan bước lại gần, nhưng chợt nhớ đến trong bữa tiệc chủ tướng Nguyễn Tề Tam như đã để ý đến người ngọc ấy thì thở dài mà than rằng:
Mà biết vô duyên vẫn cứ mong,
Trăm năm ôm mãi khối tình không…
(Mấy câu thơ này của Thế Lữ).

Vừa ngâm đến đấy đằng sau bỗng cổng có tiếng động. Lê La tiên ông hoảng hồn quay lại trông xem thì là Tù Mờ tiên ông. Tù Mờ tiên ông hỏi Lê La tiên ông rằng:
− Chẳng hay tiên ông than thở gì vậy?
Lê La tiên ông toan chối nhưng Tù Mờ tiên ông đã trông thấy Ba Vành Nương Nương ngồi dưới ghế đá cạnh hòn giả sơn trong vườn hoa, thì trỏ mặt Lê La tiên ông, mắng:
− Ải! Ải! Đồ bội phản! Nhà ngươi lại định bắt chước như Võ Trúng Phong hiếp dâm Thị Mịch đấy chăng? Này ta bảo cho mà biết: Nương Nương đây đã được chủ tướng để ý, ngươi có muốn mất đầu thì hãy trêu vào. Ta phải đem việc này thưa với chủ tướng trị tội nhà ngươi mới được.
Nói xong vùng vằng ra đi, Lê La tiên ông cả sợ, vội níu Tù Mờ tiên ông lại mà năn nỉ rằng:
− Tiên ông hãy xét rõ lòng ta. Ta thật quả không có bụng nào định hiếp dâm Nương Nương cả. Chẳng qua ta thấy người đẹp nên ngâm vịnh chơi đó mà thôi, chứ ta đã thừa biết chủ tướng đã định cùng Nương Nương kết duyên phu phụ.
Lê La tiên ông vừa nói vừa móc túi lấy ra một gói kẹo tạc đạn dúi vào tay Tú Mờ tiên ông. Lúc ấy Tù Mờ tiên ông mới dìu dịu nét mặt, nói rằng:
− Ta đùa tiên ông đó mà thôi, chứ ta còn lạ gì bụng dạ tiên ông nữa.
Tù Mơ tiên ông bóc gói kẹo lấy ra một chiếc bỏ vào mồm vừa nhai vừa hỏi:
− Kẹo tiên ông mua ở đâu mà cắn không vỡ thế?
Lê La tiên ông chưa kịp trả lời, bỗng một tiếng nổ rất dữ dội phát tự trong mồm Tù Mờ tiên ông ra. Lê La tiên ông cười ha hả mà rằng:
− Đáng kiếp đồ hay ăn của đút. Kẹo tạc đạn mà ngươi dám ăn thì ngươi to gan thật.
Nói xong độn thổ chạy mất. Tù Mờ tiên ông bị tạc đạn nổ trong mồm làm gẫy mất một chiếc răng. Tuy đau đớn vô cùng nhưng cũng không dám hé răng cho ai biết, sợ lại lòi tội ăn của đút của mình ra chăng.
Rõ thật là:
Ba Vành liếc khoé thu ba,
Tề Tam ngây ngất, Lê La thẫn thờ
Đau đớn thay! phận Tù Mờ
Ham ăn của đút ai ngờ gẫy răng!

Lại nói về chủ tướng Nguyễn Tề Tam lên đến phòng riêng của Ba Vành Nương Nương, nhưng không thấy nàng ở trong phòng bèn rón rén ra vườn hoa, thấy Ba Vành Nương Nương ngồi bên hòn núi giả, bèn rón rén lại gần. Ba Vành Nương Nương lúc ấy biết chủ tướng Nguyễn Tề Tam tiên lại phía mình, thì trong lòng bỗng thấy hồi hộp rung động, người run lên vì sung sướng, tim đập mạnh mặt nóng bừng, cúi gằm xuống, chân di di dưới đất, tay vân vê mãi mép váy.
Sau Ba Vành Nương Nương định ngửng đầu lên nói mấy câu bảo Nguyễn Tề Tam ra ngay khỏi vườn, nhưng nàng không có đủ can đảm để ngửng đầu lên, nhìn rõ mặt Nguyễn Tề Tam lúc đó. Thấy bàn tay Nguyễn Tề Tam đặt lên cổ tay nàng, nàng mới giật mình và trở nên bạo dạn, toan cất tiếng đuổi Nguyễn Tề Tam ra nhưng Nguyễn Tề Tam đã quỳ hai gối xuống bên cạnh, hai tay khoanh trước ngực, đắm đuối nhìn nàng như van xin. Ba Vành Nương Nương làm bộ đuổi Nguyễn Tề Tam ra để khỏi ngượng với Nguyễn Tề Tam cho nên đến khi thấy Nguyễn Tề Tam đã biết mình có cái ý định ấy rồi thì nàng hết cả ngượng và nhìn lại Nguyễn Tề Tam như một người tình nhân mà nàng đã yêu từ ngày còn cùng nhau học ở trên núi. Nguyễn Tề Tam bỗng nắm lấy tay nàng và mỗi lúc nắm một chặt hơn khiến nàng phải vận nội công mới chịu nổi. Ba Vành Nương Nương ngây dại cả người, mơ màng thấy Nguyễn Tề Tam cúi xuống ôm lấy hai chân nàng, rồi sau đứng thẳng người lên âu yếm hôn vào ba chiếc vành son.
Ba Vành Nương Nương khẽ đẩy Nguyễn Tề Tam ra, đứng ngay dậy khe khẽ nói:
− Tôi van chủ tướng, Chủ tướng hãy ra khỏi chốn này kẻo ai biết thì bất tiện cho đôi ta. (Đoạn [in nghiêng] này phỏng theo truyện “Lạnh lùng” của Nhất Linh).

Chủ tướng Nguyễn Tề Tam nói:
− Nương Nương ơi! Nương Nương hãy cùng ta gây dựng lấy cơ đồ. Đến sáng mai ta sẽ họp chư tướng lại giao phó cho Nương Nương chấp chưởng binh quyền và phong cho Nương Nương làm “Bình các báo Đông Dương Đại Nguyên soái”…
Đến sáng hôm sau chủ tướng Nguyễn Tề Tam thăng trướng, sai Quân sư Tứ Tử Ly thảo chiếu sách phong Ba Vành Nương Nương làm Động chủ Phu nhân, sai quân quét dọn động phủ sạch sẽ để làm lễ nghênh hôn.
Cả ngày hôm ấy ở động Phong Hoả tấp nập bộn bề. Chiều tối có cuộc khiêu vũ lớn ở sảnh đường.
Trời tối hẳn. Những ngọc chúc to nhỏ không đều thắp cả lên một lượt như sao sa. Tiếng âm nhạc ở phòng bên nổi vang lừng. Các vị tiên đều ăn bận chải chuốt, những viên bích ngọc đính ở tà áo phản chiếu với ánh đèn lấp lánh gợn hào quang. Thật là một cảnh phong lưu đài các, một đám cưới to lớn linh đình.
Hết điệu “Vogue mon coeur” tiếp luôn đến bản “Nam ai”, tiếng đàn vẫn dồn dập nổi như ru hồn các vị tiên xuống dưới âm phủ mà say xưa.

Chủ tướng Nguyễn Tề Tam mình bận lễ phục thân tiếp các tướng sĩ và các vị tiên ông, tiên bà, tiên cô, tiên cậu trong động Phong Hoả.
Tiếng đàn phòng bên vẫn rồn rập nổi…
Nhưng mọi người đều ngạc nhiên vì từ lâu không thấy Ba Vành Nương Nương đâu. Chủ tướng Nguyễn Tề Tam lo lắng chạy vội lại tân phòng thì bỗng nghe có tiếng quát tháo và tiếng vật nhau huỳnh huỵch từ trong đưa ra, chủ tướng Nguyễn Tề Tam hoảng sợ xô cửa chạy vào thấy Ba Vành Nương Nương đang vật nhau với một người mặt bôi nhọ nồi đen sì, đầu đội mũ như úp chiếc nồi đất, mình mặc áo chẽn thâm, thì đùng đùng nổi giận, phi thân đến trợ chiến. Ba Vành Nương Nương thấy có chủ tướng Nguyễn Tề Tam giúp sức thì tinh thần phấn khởi, chuyển thần lực đánh rất hăng. Tên kia biết mình núng thế, vội vàng vớ lấy chiếc đòn gánh bảy gióng dựng ở tường và cắm đầu chạy ra phía cửa rồi dùng phép phi hành thuật nhảy lên nóc nhà chạy trốn.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam và Ba Vành Nương Nương đuổi theo ra đến máy nước ngoài cửa thì không thấy đâu nữa. Hai người còn đang ngơ ngác, chủ tướng Nguyễn Tề Tam nhác trông thấy bên gốc cây bồ đề có một vật gì trăng trắng vội chạy lại nhặt lên xem, thấy đề:

 


Chủ tướng Nguyễn Tề Tam giận sôi sùng sục, giậm chân, vỗ đùi nói to lên rằng:
− Ta thề phen này phải đánh quân máy nước này cho ộc nước ra và làm cỏ hết lũ yêu quái bên động Tản Dân mới hài lòng.
Ba Vành Nương Nương nói với chủ tướng Nguyễn Tề Tam rằng:
− Tên Võ Trúng Phong này thật là một con quỷ dâm dục, tiện thiếp vừa vào thay quần áo để ra dự cuộc khiêu vũ, bị nó xông vào toan hãm hiếp. Nếu tiện thiếp không nhờ có sức khoẻ chống cự lại thì đã bị nó “Nghị Hách” [= hiếp dâm] rồi còn đâu!
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam căm tức vô cùng, nhưng cũng phải nén giận an ủi Ba Vành Nương Nương rằng:
−  Hiền thê hãy khá an lòng. Để vài hôm nữa ta kéo quân đến phá tan động Tản Dân, bắt cho được tên Võ Trúng Phong, nhốt nó vào bồ mang trôi sông cho bõ giận.
Nói xong quàng vai Ba Vành Nương Nương ra đại sảnh đường cùng nhau say sưa trong những điệu nhẩy.
Đó thật là:
Đã toan “Nghị Hách” Ba Vành
Ngờ đâu phải gái đành hanh… chẳng hòng!
Đáng kiếp thay Võ Trúng Phong,
“Nghị Hách” không được phải cong đuôi… chuồn.

Lại nói về Võ Trúng Phong phi thân lên mái nhà nhảy ra khỏi động Phong Hoả cắm đầu chạy miết không dám quay cổ trông lại. Khi chạy đã xa mới dám ngồi dưới một gốc cây để thở, vừa thở vừa nghĩ bụng rằng:
−  Ta từ khi sinh ra ở đời một mình hiếp bao nhiêu đám nhưng không bị đám nào chống cự lại kịch liệt như đám này. Nếu không co cẳng chạy tháo thân thì có lẽ nay ta đã bị bắt rồi. Tức cha chả là tức!
Nghĩ vậy Võ Trúng Phong như người điên cuồng, cầm đòn gánh múa tít một hồi, làm bao nhiêu cây to lớn đều rụng sạch cả lá. Khi đã nhọc rồi thì vứt đòn gánh xuống nằm lăn ra đất và lại nghĩ bụng rằng:
− Ta cứ tưởng sang giúp động Tản Dân để báo thù cho động Hồng Kê, nào ngờ tụi Phong Hoả lại được Ba Vành Nương Nương và Xã Xệ đồng tử là con và đồ đệ của Lý Toét Lão tổ giúp sức thì còn mong gì báo thù được nữa. Mà Ba Vành Nương Nương thì, trời ơi! Người đâu sắc nước hương trời, mắt loe vành ngọc để người đắm say! Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, ta chưa hề thấy người nào xinh đẹp đến thế bao giờ!

Nghĩ như vậy rồi, Võ Trúng Phong thấy trong bụng đói cồn cào, bèn lẩm bẩm:
− Chà! Đói quá! Mình phải đến nhà nào gần đây cướp lấy ít cơm ăn mới được. Có thực mới vực được… “Nghị Hách” chứ?
Nói xong chạy thẳng một mạch đến nhà kia, đứng cửa nhòm vào thấy trong nhà có hai chị em cô gái đang ngồi ăn cơm, Võ Trúng Phong bèn nhẩy sấn đến hoa đòn gánh lên giơ vào tận đầu cô chị, sừng sộ nói:
− Muốn sống phải im cái mồm để ông muốn làm gì thì làm, nếu đứa nào kêu ông sẽ cho về với ông bà ông vải.
Hai chị em cô gái sợ xanh mặt, đều run cầm cặp mà thưa rằng:
− Xin quan lớn tha cho chị em chúng tôi được toàn mạng còn thì quan lớn muốn gì chị em chúng tôi cũng xin vâng.
Võ Trúng Phong vứt đòn gánh xuống đất, lại gần cô chị nhăn nhở mà rằng:
− Nói đùa đấy chứ tớ không hại cô mình đâu. Chỉ xin cô mình cho tớ…
Võ Trúng Phong vừa nói đến đấy bỗng bị luôn hai quả đấm nặng ngót trăm cân đánh vào mặt làm tối tăm mắt mũi, vội vàng chạy thẳng ra đường. Ra đến đường còn nghe văng vẳng tiếng hai chị em cô gái nói:
− Đã biết tay các bà mày chưa? Quen thói hiếp dâm thì có ngày toi mạng.
Võ Trúng Phong sợ nhưng tức đầy mật, vừa chạy vừa quay cổ lại chửi:
− Tiên sư nhà chúng mày nhé, chúng mày lại sỏ cả ông à?
(Chúng tôi có lời xin lỗi các độc giả, vì muốn cho vui câu chuyện nên chúng tôi mượn tạm câu văn của ông Vũ Trọng Phụng để vào đây và nhân tiện chúng tôi xin lỗi cả ông Vũ Trọng Phụng, chúng tôi phải mượn câu văn của ông cho hợp với vai tuồng. − VĂN  VIỆT TỬ)

Chửi xong câu ấy, Võ Trúng Phong lại dùng thuật phi hành chạy một mạch về Động Tản Dân.
Lại nói về động Phong Hoả mấy hôm sau Ba Vành Nương Nương cùng chủ tướng Nguyễn Tề Tam thăng trướng, truyền đòi Quân sư Tứ Tử Ly vào phán rằng:
− Nay quân lực động ta đã đầy đủ, vậy quân sư kíp thảo một bức chiến thư “khiêu chiến với hết thảy các báo ở Đông Dương” để cho thiên hạ biết rằng quân oai của ta đã lừng lẫy, và các vị tiên động ta khỏi phải ngồi rỗi ngáp ruồi.
Quân sư Tứ Tử Ly nghe nói cả sợ, vội vàng can rằng:
− Bẩm chủ tướng và Nương Nương, quân ta tuy đã dư sức mạnh, nhưng nay ngay một lúc mà ta khiêu chiến với tất thảy các báo xứ Đông Dương này là một điều thất cách. Chủ tướng và Nương Nương chẳng thường nghe câu phương ngôn “Nhất hổ bất địch quần hồ” đó ư? Huống chi mình thành thế tuy vững nhưng chưa chắc đã giỏi hơn ai, mình mà vội khiêu chiến với họ, tuy là một cách quảng cáo rất ranh mãnh thực đấy, nhưng tôi e lợi chưa thấy đã thấy hại ngay trước mắt. Nếu họ đổ xô vào mà đánh mình thì dẫu mình vững như bàn thạch cũng phải lung lay. Mà nếu không ai thèm đếm xỉa tới có phải mình bẽ bao nhiêu không. Xin chủ tướng và Nương Nương hãy xét kỹ.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam nói:
− Quân sư nói tuy có lý, nhưng quân sư chỉ biết một chứ không biết hai. Nếu mình khiêu chiến mà họ xô lại tổng công kích thì xin xử hoà, bằng không ai thèm đếm xỉa đến mình thì cứ nói lớn lên rằng họ đã chịu thua mình vậy…
Quân sư Tứ Tử Ly biết lòng chủ tướng Nguyễn Tề Tam đã quyết thì dù can gián lắm cũng bằng thừa, bèn từ giã lui về phòng lấy giấy bút thảo một bức chiến thư như sau này:

PHONG HOẢ
Khiêu chiến với hết thảy các báo ở Đông Pháp,
BỨC TỐI HẬU THƯ GỬI CHO CÁC BÁO
“Từ khi bản động ra góp mặt góp mũi với các báo, khiêu khích các báo cũng nhiều mà dỏng tai ra nghe các báo mắng lại cũng lắm. Bản động chủ tướng Nguyễn Tề Tam có thể vểnh mũi lên trời mà ngâm chơi câu thơ này:
… Phong Hoả công thành cóc… cóc khô!
Xưa kia bản động khiêu chiến từng động một, như động Hồng Kê, động Tản Dân v.v… Nay bản động chủ tướng Nguyễn Tề Tam mới được cùng Ba Vành Nương Nương, trưởng nữ Lý Toét lão tổ kết duyên cầm sắt thì sợ gì mà không vơ đũa cả nắm? Vì vậy bản động muốn khai chiến với hết thảy các báo trong toàn hạt xứ Đông Dương, từ báo trên thiên đình, đến báo dưới âm phủ, cho chí báo chữ Cao mên, Lào, Yao, Lolo, Mán, Thổ, Mèo, Mọi, Nùng, Chàm…
Việc tầy đình ấy là vấn đề sổng chuồng. Từ ngày thành lập làng báo ở xứ ta, chỉ có bản động là hiểu rõ sự lớn lao ấy, còn các ông chả biết cái gì cả, chỉ có lũ tôi biết với nhau mà thôi. Tuy lũ tôi sinh sau đẻ muộn mặc dầu (hay là các ông đã bàn đi bàn lại nhiều lần về vấn đề ấy rồi mà chúng tôi chưa biết thì không kể).
Vậy mà các ông không chịu tìm cho ra ánh sáng, các ông cứ ở trong xó tối mà cãi nhau ầm lên về rốn ông Lục, bụng ông An, óc ông Tam, dạ giày ông Hoàng Đạo, như thế còn ra cái quái gì nữa? mà mỗi lần mỗi tờ báo bị đóng cửa thì chỉ lũ chúng tôi bằng chân như vại được thôi, chứ ngờ đâu các ông cũng bằng chân như vại nốt, như thế mà các ông bảo là tình đồng nghiệp thì lạ thật! thế ra các ông chỉ biết các ông chứ không biết đến người khác, các ông không biết bênh vực lẫn nhau tí nào cả. Trừ chúng tôi ra, mỗi khi có bạn đồng nghiệp nào bị đóng cửa chúng tôi không muốn nói đấy thôi, chứ chúng tôi đã nói thì phải biết… phải biết!
Chúng tôi nói thế không phải chúng tôi xấu bụng đâu, chúng tôi tốt với các ông lắm. Chả thế mà mỗi tờ báo chết chúng tôi lại quỳ trước ban thờ đọc văn tế hẳn hoi, như thế các ông bảo không vị tình đồng nghiệp là gì? Tuy có một đôi khi chúng tôi cũng mong và dìm cho một vài bạn đồng nghiệp chết đi để chúng tôi đọc văn tế, nhưng đấy chỉ là đùa cho vui, chứ bản ý chúng tôi bao giờ cũng trái lại với công việc chúng tôi vẫn làm.
Bây giờ lại trở về vấn đề tháo cũi.
Các ông tưởng rằng mở then cũi là lũ báo chúng mình được sổng chuồng rồi đấy hẳn? Các ông lầm, cái lầm của các ông có lẽ lại to hơn cái chuồng xưa nay vẫn nhốt các ông và chúng tôi vậy!
Nói tóm đầu, tóm đuôi, tóm giữa, các ông phải cho bản động biết:
1) Chế độ mở cũi hiện thời có phải là chế độ thả lỏng không?
2) Sổng chuồng lợi thế nào? Kể ra.
3) Tại làm sao các ông không đả động đến câu ấy?
Quân đã dàn sẵn, xin các ông mau mau mang binh đến giao chiến, nếu không tức là các ông thua thủa thùa thua, các ông đã phạm vào tội không mong có một ngày kia người ta mở cũi sắt thả chúng ta về rừng vậy.
Nay đại khiêu chiến
Đại Phong Hoả động
Đại chủ tướng Nguyễn Tề Tam và Đại quân sư Tứ Tử Ly ký
Đại Ba Vành Nương Nương áp đại triện”

Quân sư Tứ Tử Ly mướt mồ hôi trán, dứt gần hết tóc mới viết xong được bức chiến thư thì thích quá nhảy lên mấy cái mà nói rằng:
− Lời văn mạch lạc, lý thú làm sao! Các báo xem đến bài này chắc phải bở vía mà chịu thua cả cũng nên, mình có thể tự hào với mẹ đĩ rằng: Một quản bút hàng muôn binh tướng vậy!

Nói xong Quân sư Tứ Tử Ly lại càng đắc chí, nhảy lên mấy cái nữa và chạy đến đại sảnh đưa trình chủ tướng Nguyễn Tề Tam. Chủ tướng Nguyễn Tề Tam xem xong khen nức nở:
− Hay lắm! Tuyệt tuyệt! Thật là giời sinh ra động Phong Hoả để đi khiêu chiến, và giời sinh ra Tứ Tử Ly để viết chiến thư.

Quân sư Tứ Tử Ly nghe chủ tướng Nguyễn Tề Tam khen chẳng tiếc lời thì mũi tự nhiên nở to ra, to mãi, to mãi, sau nặng quá không đeo nổi ngã gục ngay xuống thềm. Chủ tướng Nguyễn Tề Tam hốt hoảng gọi Lê La và Khái Huyết tiên ông đến truyền rằng:
− Khiêng ra mau, kẻo cái mũi của quân sư nở to quá lỡ nổ bùng ra đây, tên Bùi Xuân Cạc ở Vịt Báo lại tưởng nồi súp-de nổ, hắn phái đặc phóng viên đến mở cuộc điều tra thì khốn.
Lê La và Khái Huyết hai tiên ông vội vàng lấy thừng xâu lỗ mũi của quân sư Tứ Tử Ly vào đòn ống khiêng ra đại sảnh.
Đó thật là:
Phong Hoả công thành cóc cóc khô
Được thời hống hách mũi sưng to
Bao giờ Tứ Tử về âm phủ
Hẳn để khao binh chiếc mũi bò.

Lại nói về Tù Mờ tiên ông đêm ấy phải canh ở cửa thành phía Đông, tay cầm dùi trống, thỉnh thoảng lại đánh lên mấy tiếng báo hiệu sang canh…
Lúc ấy vào khoảng canh ba, gà phía xa đã lên tiếng gáy, thì dưới chân thành bỗng có một tiếng pháo lệnh nổ, rồi đèn đuốc bật sáng choang, quân sĩ động Tản Dân kéo đến bạt ngàn, cùng cất tiếng hò reo như sấm. Tù Mờ tiên thấy vậy muôn phần kinh hoảng vội chạy vào trướng phi báo với chủ tướng Nguyễn Tề Tam. Chủ tướng Nguyễn Tề Tam lập tức cho mời quân sư Tứ Tử Ly đến hỏi. Quân sư Tứ Tử Ly giơ tay lên bấm một quẻ độn rồi thưa rằng:
− Thưa chủ tướng, đó là Tả Nguyên soái Ngốc Giao và Hữu Nguyên soái Hiển Chỳ ở động Tản Dân chia binh định ùa đến cướp trại ta.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam cười nhạt mà rằng:
− Nếu vậy hay! Ta đang muốn tìm lũ quỷ, nay lũ ấy lại bảo nhau tự đến nộp mạng, ta càng khỏi mất công.
Nói xong chủ tướng Nguyễn Tề Tam lui vào hậu phòng đánh thức Ba Vành phu nhân dậy để bàn việc quân. Khi gần đến cửa phòng nghe văng vẳng có tiếng bò rống. Chủ tướng Nguyễn Tề Tam bèn gọi một tên a hoàn đến hỏi rằng:
− Đêm hôm khuya khoắt, chẳng hay tiếng bò ở đâu rống mà huyên náo vậy?
Tên a hoàn thưa:
− Thưa chủ tướng, đấy là tiếng Ba Vành phu nhân ngáy chứ không phải bò rống.
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam nghe a hoàn nói vậy thì cao hứng, ngâm:
Đêm ngủ em ngáy như bò
Anh yêu anh bảo ngáy cho vui nhà.
Ngâm xong vào phòng đánh thức Ba Vành phu nhân dậy bảo rằng:
− Hiền thê ơi! dậy mau để liệu việc quân, kẻo binh động Tản Dân đã vây kín quanh thành, nếu chậm chễ e thành này khó giữ được.
Ba Vành phu nhân ngủ đang ngon giấc, thấy chủ tướng Nguyễn Tề Tam lay gọi thì giật mình tỉnh dậy, hỏi:
− Phu quân có biết kẻ nào cầm binh đến xâm phạm thành trì của ta không?
Chủ tướng Nguyễn Tề Tam nói:
− Tả Nguyên soái Ngốc Giao và Hữu Nguyên soái Hiển Chỳ của động Tản Dân.
Ba Vành phu nhân nói:
− Được lắm! Được lắm! Bớ Ngốc Giao và Hiển Chỳ! lát nữa các ngươi sẽ biết tay ta.
Nói rồi bước xuống đất cùng chủ tướng Nguyễn Tề Tam ra đại sảnh, mời quân sư Tứ Tử Ly cùng trèo lên mặt thành trông xuống, thấy phía dưới quân sĩ của động Tản Dân đóng hằng hà, cơ nào đội ấy rất tề chỉnh, các tướng hiệu thì khôi giáp oai nghiêm, các vị yêu tiên quái hiệp đều mặc áo đao bào, đội mũ đạo sĩ, tay cầm phất trần, các luồng kiếm quang biến hình ngũ sắc bay loạn xạ như sao đổi ngôi.

Ba Vành phu nhân nhận xét một hồi, truyền gọi Lê La, Thạch Lâm, Khái Huyết và Hàn Đãi Đá bốn vị tiên ông đến truyền rằng:
− Lê La và Thạch Lâm hai vị đem ba nghìn tinh binh ra cửa Đông giao chiến với quân địch, đánh để thử sức chúng thôi chứ không cốt lấy được. Khi nào thấy núng thế phải lập tức kéo quân vào thành; còn Khái Huyết và Hàn Đãi Đá hai vị đem ba nghìn quân mở cửa thành phía Tây ra giao chiến, cũng để thử xem sức của địch quân mạnh yếu nhường nào để sau sẽ liệu.

Bốn vị tiên vâng lời, kiểm điểm sĩ tốt rồi kéo quân ra trận.
Lê La và Thạch Lâm hai vị tiên ông truyền quân bỏ điếu kiều xuống mở cửa thành phía Đông kéo ra, dàn thành thế trận xong đâu đấy. Thạch Lâm tiên cầm ngang nhọn bát sà mâu quát to lên rằng:
− Bớ nghịch tặc! Ra đây ta hỏi!
Quát vừa dứt lời, bên động Tản Dân có một tướng xông đến cùng quát lên rằng:
− Có ta đây. Ngươi muốn nói gì cứ nói.
Thạch Lâm tiên nói:
− Ngươi tên là gì? Khai mau ra để ta cho về âm phủ.
Tướng ấy nói:
− Ngươi muốn nghe đại danh của ta thì phải ngồi cho vững kẻo lại giật mình ngã va đầu vào cẳng ngựa thì đừng trách là ta không báo trước. Ta: Tả Nguyên soái Ngốc Giao trướng hạ, Lề Văn Trướng đại danh, bấy lâu nay là xông pha hết trên rừng dưới biển, học rộng xem nhiều, chẳng thế mà ta biết cả con sông Ngân Hà chảy từ Bắc Mỹ xuống phía Nam châu Úc, giải núi Thái Sơn cao vút luồn qua lần mây đỏ đến tận lần mây xanh; ta lại còn biết cả về thế kỷ thứ 17, ông Woeth, một nhà thông thái nước Anh, nói: “Chiến tranh chỉ là một cuộc đánh nhau của hai nước” thật đúng lắm vậy. Kìa lại ông phật Hamarithnouch nước Ấn Độ dậy đệ tử rằng: “Đã ở chùa thì không được lấy vợ”, thật là chí lý, chẳng những thế, ông Kimokochi, một vị bác sĩ Nhật Bản thường bàn về tâm lý người đời, có nói rằng: “người ta lúc đói muốn ăn, lúc khát muốn uống” thật là đúng hết chỗ nói.

Thạch Lâm tiên sợ Lề Văn Trướng còn nói nữa, bèn quát to lên rằng:
 − Lề Văn Trướng! Ngươi ra đây để đối địch cùng ta hay ra đây để khoe cái thông thái của nhà ngươi đấy, hử?
Lề Văn Trướng vẫn điềm nhiên nói:
− Về thế kỷ thứ 20 này, mới phát minh ra một thứ tầu chạy ở trên trời mà người ta gọi là tầu bay, và một thứ tầu hễ thả xuống nước là chìm nghỉm mà vẫn chạy được, nên người ta gọi là tầu ngầm vậy.

Thạch Lâm tiên sốt ruột, dơ bát-sà-mâu nhằm giữa bụng Lề Văn Trướng đâm một nhát, Lề Văn Trướng vội vàng gạt được mũi mâu đâm trượt ra ngoài rồi kêu to lên rằng:
− Để im ta nói! Vẫn chưa hết cái thông thái của ta…
Lê La tiên ông nóng tiết, bèn lẩm bẩm đọc mấy câu thần chú rồi tung quả bóng cao su lên trên không, nhắm giữa đầu Lề Văn Trướng ném xuống. Hà Lạm quái hiệp đứng đằng xa trông thấy, vội vàng vỗ vào bụng bành bạch, tự nhiên ở rốn bật ra một luồng kiếm quang sắc đen, bay ra đâm vào quả bóng của Lê La tiên, Lê La tiên biết luồng kiếm ấy rất lợi hại, bèn giơ tay lên vẫy quả bóng về. Lề Văn Trướng thở dài mà rằng:
− Rõ uổng! Rõ uổng! Công trình ta bao nhiêu năm trời đọc sách, nay mang giải cho họ biết, nhưng họ không thèm biết, cứ đánh nhau hoài!

Lại nói về Khái Huyết và Hàn Đãi Đá hai vị tiên đem quân ra cửa thành giàn xong trận thế, Hàn Đãi Đá tiên vẫy hữu Nguyên soái động Tản Dân là Hiển Chỳ lại mà nói rằng:
− Chúng ta với các ngươi không thù không oán, thế mà tự dưng vô cố sao ngươi dám mang binh đến xúc phạm vào bờ cõi của chúng ta. Vậy ngươi muốn sống phải kéo quân trở lại, bằng không ta sẽ đãi cho nhà ngươi một mẻ.

Hữu Nguyên soái Hiển Chỳ nói:
− Xin lỗi. Biết đâu ngươi lại chẳng đa nghi. Hôm nay gặp mặt ta hỏi: Đánh nhau sao chẳng đánh? Đành chờ giao chiến mặc dầu thua.
Hàn Đãi Đá cả cười mà rằng:
− Sáo! Sáo! Ngươi nói văn chương nhỉ!
Khái Huyết tiên cũng cả cười mà rằng:
− Bớ Hiển Chỳ! Đút những lời ấy vào lọ và nút kỹ lại nhé!
           ==========================================================
  LỜI TOÀ SOẠN BẮC HÀ (số 17 ra ngày 3 Décembre 1936)
Vì một lẽ riêng, ông Văn Việt Tử không cùng chúng tôi làm việc ở toà soạn nữa. Truyện Kiếm Tiên không tiền khoáng hậu này, cũng khoáng hậu kể từ nay. (Kỳ cuối cùng của truyện này do Quang Mai viết)
.
==========================================================

Hiển Chỳ tức giận, quay mặt lại hỏi các tướng bộ hạ rằng:
− Có ai vì bản soái ra bắt những thằng giặc kia không?
Tức thì một tướng nhỏ nhắn, mặc áo chẽn vàng, và vận cái quần lùng thùng bằng vải đỏ tế ngựa hoa kiếm nhẩy ra.
Hàn Đãi Đá và Khái Huyết còn đương ngây ra ngắm nghía để tìm lấy một vết xấu, lấy dao cạo gọt đi, thì vị nữ tướng đã khóe hạnh tròn soe, cất tiếng oanh vàng sang sảng mà quát lên rằng:
− Bớ Khái Huyết và Hàn Đãi Đá, bay chớ quen hoành hành bắt nạt những hạng nhu nhược mãi, không được đâu. Ngày nay cũng là số các ngươi đến ngày tuyệt nên mới gặp cô nương. Nếu các ngươi đã biết tiếng “Cô gái quần đỏ” thì xuống ngựa cắt thủ cấp dâng ta đi, để ta khỏi phải ra sức.

Khái Huyết tiên cả giận hươi thương ra đánh. Lúc ấy quân hai bên cùng đánh chiêng trống rầm trời để thị uy. Bỗng Khái Huyết lấy thương gạt mạnh đôi kiếm của cô gái quần đỏ ra, giật cương ngựa lùi lại mấy bước, miệng lẩm bẩm đọc thần chú, tay bắt quyết và thét to lên một tiếng: “Tuyết”
Tức thì trên giời gió thổi vù vù, mây đen kéo lên ngun ngút, rồi mưa xuống rào rào. “Cô gái quần đỏ” cả cười rằng:
− Làm chi những phép nhỏ mọn ấy, trông bản lĩnh của cô nương.
Nói rồi cũng bắt quyết và hô thần. Trời bỗng lại quang đãng im lặng như thường. Đoạn cô cởi cái thắt lưng tung lên trời thành đạo hào quang sáng quắc. Khái Huyết và Hàn Đãi Đá thấy giây khổn tiên cả sợ, quay ngựa chạy về. Bỗng lại thấy trống trận ầm ầm, quân sĩ rẽ ra hai bên và từ trong cổng thành một vị nữ tướng phi ngựa ra như bay:
− Con tiện tỳ chớ vô lễ. Có bản soái ra đây.
Đoạn vị nữ tướng nắm tay đập vào mặt ba cái, ba cái vòng đỏ chót rực rỡ hào quang bay lên chém giây khổn tiên làm hai đoạn.
Cô gái quần đỏ cả sợ, lùi vào trong trận nhường cho Hiển Chỳ phóng ngựa ra. Chàng múa một bài chuỳ rất hăng hái, rồi trợn mắt há hốc mồm ra, tay chỉ Ba Vành quát hỏi rằng:
− Ngươi có phải gái mới không?
Ba Vành không hiểu ra sao, lấy làm kinh, hỏi gặng lại rằng:
− Ngươi hỏi thế nào ta không hiểu?
− Con tiện tỳ vểnh tai nghe cho rõ. Ta hỏi ngươi có là con gái mới không mà dám ra đối địch với ta. Ta đây là tay anh hùng trong thiên hạ, không thèm giết đứa vô danh và đánh nhau với tụi đàn bà mặc váy như hạng mày, muốn sống cút ngay về gọi Nguyễn Tề Tam ra đối địch.
Ba Vành thét to lên rằng:
− Bớ tiểu tử miệng còn hơi sữa, hãy im đi nghe ta nói đây: Ta đây là Phong Hoả động chủ phu nhân, tức là Ba Vành Nương Nương, con gái rượu của Lý Toét lão tổ. Nếu nhà ngươi biết theo thời vận, bỏ lũ yêu tiên ra tìm kế khác kiếm ăn mới hòng có cơ mở mặt với đời. Chứ cứ luẩn quẩn vào hang đỏ ra hang đen, thì ta tiếc cho công ngươi trong bao lâu tu luyện.
− Chớ khá nhiều lời trông ngọn chuỳ của bổn soái đây.
Tức thời Ba Vành xắn gọn hai tay áo, buộc túm lại gấu váy, hươi quyền nhẩy vào. Một trai, cầm chuỳ quay lộn và một gái tay không mà vẫn bất phân thắng phụ.

Bỗng trên trời có tiếng nổ thật to, mấy cổng thành mở to ra, các tướng bên động Phong Hoả cùng reo to rồi tranh nhau qua điều kiều ra vây quân động Tản Dân vào giữa. Ngốc Giao và Hiển Chỳ bối rối, vội rút trong túi ra cái còi để thổi làm hiệu thu quân.
Nghe tiếng báo hiệu, các yêu quái hùa nhau chạy trốn, hoá ra nhiều luồng hắc khí đen sì bay về phía Đông Nam chui vào động.

Tề Tam thấy quân mình toàn thắng mừng rỡ quay về tìm phu nhân để tạ ơn thì đã thấy Ba Vành đương ngồi dụi mắt bên đường cái.
Tề Tam vội vàng nhẩy xuống ngựa, đến bên năn nỉ rằng:
− Kìa sao phu nhân không trở về an nghỉ. Thật hôm nay không nhờ có thần dũng của phu nhân thì còn mất bao công lao mới đánh tan được lũ quỉ quái ấy. Tiếng vậy tất thế nào chúng cũng còn đến đánh báo thù. Vậy phu nhân hãy về bàn với ta sắp đặt việc đối địch. Mau lên kẻo ngồi bên đường nói chuyện sợ họ dị nghị và nhỡ đội con gái hỏi lại phải khai báo lôi thôi.
Ba Vành khóc nức nở lên mà rằng:
− Phu quân ơi! Thiếp xấu hổ quá. Chỉ vì thương phu quân mới đến nỗi này. Tôi đã định suốt đời tôi không màng đến chuyện chồng con nữa. Ai ngờ đến khi gặp phu quân, thiếp thấy thổn thức trong lòng. Thế rồi một buổi chiều nghe lời đường mật của phu quân, thiếp quên cả đạo tu hành, cùng phu quân kết duyên để khỏi lạnh lùng trong những ngày giá lạnh. Vì thế mắt thiếp mỗi ngày một toét, ngày nay lông quặm mọc đầy. Em bắt đền phu quân đấy.

Tề Tam lo sợ hối quân sĩ vào thành mang song loan ra rồi thân nhấc Ba Vành lên đặt nằm vào lòng và truyền quân sĩ vào hết trong thành.
Thật là:
Thương người thì khổ đến thân
Yêu chồng nên mắt toét dần mãi ra.

Nói về các tướng động Tản Dân bị thua lục tục kéo nhau về, vào ra mắt Vũ Đình Luông, khấu đầu bốn lễ, rồi cùng nhau tâu lên rằng:
− Tâu chủ soái, lũ hạ thần cam muôn chết, mới ra binh mà đã chịu thua để mất nhuệ khí của quân ta. Song bên động Phong Hoả có Ba Vành là con gái Lý Toét võ nghệ rất cao cường, thần thông quảng đại, lũ hạ thần phải lui để tính mưu khác phục thù vậy.
Vũ Đình Luông nghe tâu cả sợ vội hỏi rằng:
− Vậy bây giờ ta biết tính cách nào được. Các ngươi có kế hoạch gì không?
Hà Lạm quái hiệp bước ta tâu lên rằng:
− Muôn tâu động chủ, tôi xét xảy ra việc rắc rối và nguyên uỷ các trận thua của Hồng Kê động và động ta này, chỉ tại tên Văn Việt Tử ở động Bình Dân khéo đặt ra. Nay tôi biết tên ấy chỉ sợ Lệ Mai tiên cô trên núi Côn Sơn. Nên muốn mọi việc đều yên, thì tôi xin mang vàng lụa lên núi cầu Lệ Mai xuống rủ Văn Việt Tử về tu hành, không còn ai hơi đâu nói đến bọn ta nữa.
Đình Luông nghe nói cả mừng rồi sai mang 300 đĩnh vàng 1000 tấm lụa tức khắc sai Hà Lạm lên núi Côn Sơn cầu cứu.
Hôm ấy về cuối mùa thu tháng chín, các vị tiên trong động Bình Dân đương bàn soạn về trận đại chiến của hai động Phong Hoả và Tản Dân, bỗng thấy Văn Việt Tử hắt hơi hoài, chạy vội ra cửa, vấp năm bẩy lần:
− Lệ Mai tiên cô đợi tôi mấy! Các anh ở lại tôi đi đây.
Mọi người còn đang ngơ ngác thì Văn Việt Tử đã rẽ vào ngõ con độn thổ cùng một bóng người gầy gò biến mất.
Từ đấy truyện giao chiến của các động mới thôi.
Rõ thực là:
Dù rằng mười vạn hùng binh.
Mạnh sao bằng tiếng ái tình xa xăm.
Người sau làm thơ kết luận rằng:
Gớm tụi Bình Dân khéo về với,
Bày ra tranh chiến để vui cười.
Rồi ra Tam động thành không hết,
Rút lại anh em mất một người.
                                                                         (HẾT)
------------------
●Nguồn: Bắc Hà, tập mới, Hà Nội, từ số 1 (10/8/1936) đến số 17 (3/12/1936)