Sinh hoạt hàng ngày trong đời thường dân dã trùi trụi, nông dân nam bộ hay có câu nói tửng tửng rằng: “nói dậy mà không phải dậy”. Tâm ngôn của những từ ngữ văn nói mộc mạc này luôn phả ra những hơi hám của các nhà tư tưởng, hầu như ai cũng biết, những ai chưa chú ý nội dung hàm súc ý nghĩa của câu trên thì trong mọi quan hệ với các đối tác thông qua ngôn ngữ sẽ thường bị “hố hàng”… và có thể sẽ đón nhận nhiều hệ quả không vui khác.
Bài thơ Cây Đòn Gánh của tác giả Nguyễn Vân Thiên là một dẫn chứng, tựa của bài thơ thì là Cây đòn Gánh, mà nội dung thì lại nói về mẹ, trong khi nêu lên hình ảnh người mẹ thì lại ẩn hiện bóng dáng cây đòn gánh, đúng là: “nói dậy mà không phải dậy, không phải dậy mà nó là dậy”
Nếu máy móc phê phán, và khắc khe một cách ích kỷ, hời hợt với nghệ thuật nhân cách hóa, ước lệ, cú pháp xây dựng hình tượng, thanh ngôn…hoặc đọc hời hợt thì có thể nói đây là một bài thơ nội dung không ôm đề.
Có phải vậy không!?
Hoàn hoàn không, bởi vì tác giả như nhập thần vào cây đòn gánh, nên đã nghe được tiếng nói của tre khô rồi phiên dịch lại cho người đọc hiểu thấu nỗi tâm tư của một vật vô tri làm công cụ nhà nông trong sản xuất, làm phương tiện vận tải hàng hóa bán buôn tảo tần của người mẹ.
“Lưng cây đòn gánh mòn trơn
Lời tre khô nhắc công ơn mẹ già”
Quả thật, Tre như một biểu tượng cây Việt Nam, khi đã hóa thân thành cái đòn gánh, nó trở nên khôn ngoan, tế nhị và khéo miệng một cách khiêm cung đúng mực, mà trong đó hàm ý bày tỏ công trạng của chính mình.
(Thực chất đây là một nghệ thuật nhân cách hóa điêu luyện của tác giả, ngòi bút tác giả đã đẻ ra cây đòn gánh có lưng, có miệng và có cảm xúc đồng điệu nhằm làm phương tiện kết nối, nói điều người con luôn nhớ ơn mẹ)
Một đời cơ cực, lội suối trèo non, từ bình minh đến hòang hôn, từ trưa cát bỏng đến sương lạnh trăng khuya, tần tảo sớm hôm đưa con qua đèo, vậy mà mẹ không một lời kể lể, từ đầu đến cuối bài thơ chúng ta chỉ nghe toàn là lời của cây đòn gánh.
Rồi: ”Một đời gióng đứt đòn cong”, mới nghe qua như nó được dán trên vai mẹ nên cái đòn gánh hẳn đã là người bạn tri âm tri kỷ của mẹ, và nó hiều tất cả những tâm tư trăn trở trong cảnh khổ nghèo, những ước mơ tương lai và những yêu thương mẫu tử ngàn đời của những bà mẹ việt nam trên mọi miền tổ quốc, dọc theo dãi đất hình cong chữ S này, bên tây điệp điệp, trùng trùng Trường Sơn hùng vĩ, phía đông là biển Thái Bình Dương ngày đâm nhấp nhô sóng lượn xô bờ, chạy dài từ bắc xuống nam, nên “ bao lần xuống biển, bao lần lên non” là vậy.
Theo lát cắt địa lý, hầu như địa phương nào cũng có rừng núi, trung du, đồng bằng, và vùng ven biển. Vậy thì hình ảnh người mẹ với đôi quang gánh trèo non lội suối, băng cồn cát trưa, bán than, mua muối là hoàn toàn thật Cây đòn gánh chẳng điêu ngoa điều gì, có câu ca dao: “Ai về nhắn với nậu nguồn/ Mít non chở (gánh) xuống, cá Chuồn chở lên” làm chứng. Mít chỉ có nhiều ở đồng bằng, vùng cao, cá Chuồn thì được ngư dân đánh bắt ở Biển đông. Sự giao thương trong đời sống sinh hoạt của người dân các vùng miền được thông qua cây đòn gánh trên vai mẹ.
Đôi quang gánh và người mẹ đã hằn dấu chân trên từng con đường lớn nhỏ khắp thôn xóm làng quê, thị thành, biên ải để tồn tại trong yêu thương, trong mơ ước… gánh đời con qua đèo.
Câu nói gánh con qua đèo thoát ra từ lời tre khô mà tác giả phiên dịch lại cho chúng ta nghe, chứng tỏ cây đòn gánh và mẹ như đều nằm trong tâm tư của nhau, (đi guốc trong bụng của nhau) nó hiểu đường đèo mà mẹ phải gánh con qua không chỉ là một ngọn đèo cụ thể nào, mà nó là ải đèo của nợ đồng lần nối kiếp nhân sinh trong những ải đèo nhân thế, cái đèo phải gánh quang gánh đi qua cho con được ăn no, mặc ấm, cho con có tri thức chữ nghĩa vào đời, cái đèo lập chí, lập nghiệp, lập thân cần phải “có thực mới vực được đạo” lúc nào cũng nặng trĩu trên đôi vai gầy guộc của mẹ bằng ý chí “ da xương bào cật tre mòn”.
Tất cả ngôn từ trong bài thơ đều thể hiện công lao, tấm lòng người mẹ Việt Nam do cái đòn gánh tường thuật lại được tác giả diễn giải bằng ngôn ngữ nghệ thuật thơ lục bát truyền thống ngọt ngào mềm mại, nhiều hình tượng và âm thanh tương phản rát bỏng chát chúa giữa người phụ nữ chân yếu tay mềm phải chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt “… Một đời gánh nắng và mưa...Gáng than lửa chạy qua cồn cát trưa… da xương bào cật tre mòn …” nhưng lại rất mướt mát vần điệu, nhẹ nhàng đưa người đọc vào tâm niệm chín chữ cù lao, hiếu đạo làm con.
Phải chăng sau khi nghe hết những lời tre khô tâm sự, cùng với những hồi tưởng riêng tư từ thuở ấu thơ, tác giả lặng người trong cảm xúc yêu thương, kính trọng mẹ già tần tảo nuôi mình để cuối cùng thốt lên cùng nhịp với cái đập nhẹ tay và chép miệng than ôi rằng:
” Một đời…
gióng đứt…
đòn cong…
Vì ai… vai lệch… lưng còng? …
Mẹ… ơi !!!”
CÂY ĐÒN GÁNH
Lưng cây đòn gánh mòn trơn
Lời tre khô nhắc công ơn mẹ già
Chợ chiều chợ sớm bôn ba
Hái gieo tất bật đồng xa đồng gần
Bán than mua muối tảo tần
Bao lần xuống biển bao lần lên non
Da xương bào cật tre mòn
Trăm năm mẹ gánh đời con qua đèo
Gánh yêu thương, gánh khổ nghèo
Gánh mơ ước lẫn gieo neo đi - về...
Gánh bình minh lội bến quê
Gánh hoàng hôn dọc chân đê bước dồn
Gánh trăng khuya giếng đầu thôn
Gánh than lửa chạy qua cồn cát trưa...
Một đời gánh nắng và mưa
Mòn vai mà mẹ vẫn chưa yên lòng
Một đời gióng đứt đòn cong
Vì ai vai lệch lưng còng? Mẹ ơi!
Nguyễn Vân Thiên