Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

ĐỖ TRỌNG KHƠI VÀ MÙA THU: MẠCH NGUỒN BẤT TẬN CỦA THI CA VIỆT

Lê Thọ Bình
Thứ bẩy ngày 4 tháng 10 năm 2025 3:05 PM

Có thể là hình ảnh về 1 người và bệnh viện

(Tôi hân hạnh nhận được bản thảo tập thơ "Ở thôn Trăng"- Tuyển thơ Mùa thu gồm 42 bài của Đỗ Trọng Khơi từ Thái Bình (cũ) với lời nhắn "Bác đọc thêm em chút cho vui nhé. Trân trọng trước tấm lòng anh, tôi đọc một mạch và mạo muội có đôi lời về tập thơ này)

Trong lịch sử văn chương Việt Nam, mùa thu từ lâu đã trở thành một thi ảnh bất tận. Đó là mùa của sự chuyển giao, của rơi rụng, của cái đẹp mong manh nhưng lấp lánh. Nguyễn Khuyến với chùm “Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh” đã để lại những áng thơ đi cùng năm tháng: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo / Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.

Hình ảnh quê nhà, ao thu, lá vàng, ngõ trúc trở thành biểu tượng của vẻ đẹp thanh sơ. Đến Xuân Diệu, thu không còn là sự tĩnh lặng mà trở thành nỗi buồn tiếc nuối, một bản nhạc bi thiết về thời gian: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang / Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư lại đem đến một mùa thu nhuốm màu siêu thực, có tiếng nai rừng, có nỗi khắc khoải vĩnh hằng.

Trong mạch nguồn ấy, Đỗ Trọng Khơi góp thêm một tiếng nói rất riêng. Ông đến với mùa thu không chỉ như một cảnh sắc thiên nhiên, mà còn như một người bạn tri kỷ. Khác với Nguyễn Khuyến nhìn thu từ bờ ao, Xuân Diệu nhìn thu từ trái tim si tình, Đỗ Trọng Khơi nhìn thu từ chiếc giường bệnh, nơi ông phải gắn bó gần như cả cuộc đời. Chính hoàn cảnh đặc biệt ấy đã khiến mùa thu trong thơ ông vừa thân thuộc vừa xa xăm, vừa là cảnh quan cụ thể vừa là tấm gương phản chiếu số phận con người hữu hạn.

Cái hay, cái đẹp của mùa thu trong thơ Đỗ Trọng Khơi:

Trong Lời ngỏ của tập thơ, ông viết: “Phải là Thu mang một vết thương sắc màu giống như kẻ trọng bệnh là tôi? Thu mong manh, quá đỗi mong manh. Nhưng sự minh bạch, quyết liệt của phẩm chất Thu cũng không gì sánh nổi.”

Đây không chỉ là tâm sự riêng tư mà còn là chìa khóa mở vào thế giới thơ Khơi. Với ông, thu là ẩn dụ cho chính cuộc đời mình: một kiếp người mảnh dẻ, dễ tan vỡ nhưng vẫn sáng rõ, minh triết. Vì thế, những bài thơ mùa thu trong tập Ở thôn Trăng luôn ẩn chứa sự đồng vọng giữa cảnh và người.

Trong "Ghi ở thôn Trăng”: Bài thơ mở ra một không gian mộng ảo:

“Chẳng làm gì khác hơn là im lặng

buổi chiều nay trăng sắp cất đi rồi

một đôi mắt một cặp môi vằng vặc

đành giấu bặt lời vào phăng phắc thôi.”

Sự im lặng ở đây không phải là trống rỗng, mà là sự lắng đọng trước một vẻ đẹp mong manh khó nắm giữ. Cái “phăng phắc” gợi một nỗi khốc liệt: cái đẹp nhiều khi chỉ có thể chiêm ngưỡng trong tĩnh lặng, không thể nói ra.

Khổ thơ sau, cảnh quê hiện ra:

“Nước se lạnh dải đồng vàng lững thững

chim dỗ mùa bay lệch hướng sông trôi

một ít nắng rất nhiều trăng và gió

khói trắng dâng hồn quê kiểng ngang trời.”

Cảnh thu không chỉ là thiên nhiên, mà gắn liền với đời sống nông thôn, với khói lam chiều, với nụ cười thôn nữ. Chính hình ảnh “mẹ gánh ngày đi sắp đặt tháng Mười” cho thấy mùa thu trong thơ Khơi luôn có sự gắn kết với con người, lao động và ký ức làng quê. Cái đẹp ấy vừa thanh khiết vừa ấm áp, khiến mùa thu của ông trở thành “mùa thu nhân sinh”, chứ không chỉ là phong cảnh hữu tình.

Nếu “Ghi ở thôn Trăng” thiên về tạo hình, thì “Đêm thu” lại đi sâu vào triết lý:

“Lá có vàng đêm thu nay không

tiếng chim đồng ăn đêm kêu sương

heo may bay chầm chậm trên đường.”

Một loạt câu hỏi không lời đáp. Thu hiện ra qua lá, chim, gió heo may, nhưng quan trọng hơn, qua sự mơ hồ của tâm trạng. Người viết như đang đối thoại với chính mình: mùa có đổi thay, hay lòng người đang đổi thay?

Khổ sau mở ra cảnh trăng, mây, lúa:

“Trăng vẫn trăng vàng hơn trong thu

mây vẫn mây dẫu sương buông mờ

mùa đã sang lúa hương thơm tho.”

Thiên nhiên vẫn trọn vẹn, nhưng con người thì ngậm ngùi:

“Người về đâu tuổi người trăm năm

mộng trần gian con đường xa xăm

người tìm người dấu chân vĩnh hằng.”

Ở đây, mùa thu trở thành ẩn dụ cho kiếp người hữu hạn. Trong cái phai tàn, thi sĩ vẫn hướng về dấu chân bất tử, một khát vọng sống, khát vọng lưu dấu.

Còn trong "Lập đông”, Đỗ Trọng Khơi không dừng lại ở nỗi buồn lá rụng mà mở rộng sang dự cảm chia ly:

“Dăm hôm nữa tiết lập đông

hai mùa một niềm da diết

hàng cây rộm màu chia biệt

chiếc lá biếc lên ngập ngừng.”

Cái “ngập ngừng” chính là tâm trạng con người trước chia biệt: muốn níu giữ nhưng biết là không thể. Cao trào là điệp khúc:

“Ngày mai ngày mai ngày mai

ai còn thấy ai làm bạn?”

Điệp ngữ “ngày mai” như tiếng gõ định mệnh, nhấn mạnh sự mong manh của kiếp người. Đây là một trong những bài thơ đạt đến chiều sâu triết lý nhất trong tập.

Bài thơ khẳng định quan niệm của Khơi về cái đẹp mùa thu:

“Trong thu tôi thấy mình rực rỡ

và thấy tôi khe khẽ lụi tàn

như cách lá lụi tàn rất đẹp

thu đó mà, cái đẹp mong mang!”

Cái đẹp của mùa thu là cái đẹp trong sự phai tàn. Sắc vàng rực rỡ không che giấu được quy luật rơi rụng, nhưng chính điều đó tạo nên vẻ đẹp mong manh, khiến con người biết nâng niu từng khoảnh khắc. Đây là một triết lý thẩm mỹ nhất quán trong thơ Khơi.

Dù luôn buồn, thơ Khơi không sa vào bi lụy. Ngược lại, cái buồn trở thành động lực để nâng con người lên tầng sâu chiêm nghiệm.

Những vấn đề cần trau chuốt và mài dũa:

Tuy nhiên, trong tập thơ này còn không ít vấn đề mà tác giả cần trau chuôt kỹ hơn.

Trong tập "Ở thôn Trăng"nhiều bài thơ xoay quanh trăng, sương, heo may, lá vàng. Dù đây là đặc trưng của mùa thu, nhưng sự lặp lại dễ gây cảm giác đơn điệu. Nếu biết tiết chế, chọn lọc, hoặc làm giàu thêm bằng liên tưởng bất ngờ, thơ sẽ tạo ra dấu ấn mạnh mẽ hơn.

Một số bài, như “Mùa thu” (so sánh mùa thu với người phụ nữ nhan sắc lộng lẫy đang nhạt phai), có đoạn kéo dài, làm giảm tính gợi mà tăng tính kể. Thơ cần độ lặng, khoảng trống để người đọc cùng suy tưởng.

Phần lớn thơ Khơi trung thành với nhịp ngắn, vần nhẹ. Điều này tạo sự an toàn nhưng đôi khi kìm hãm cảm xúc. Nếu mạnh dạn thử nghiệm với thể tự do, ngắt nhịp bất định, có thể sẽ khơi dậy sức bật mới, tương xứng với mạch cảm xúc dồn dập mà ông mang trong lòng.

Cái buồn đẹp là đặc trưng của thơ Khơi, nhưng nếu quá thiên về u sầu, tập thơ có nguy cơ đơn điệu. Những bài như “Nhớ quê” hay “Cái đẹp mong mang” đã cho thấy khả năng hướng ra phía tươi sáng, hy vọng. Nếu khai thác thêm hướng này, thơ ông sẽ có biên độ rộng hơn, cân bằng giữa bi cảm và lạc quan.

Nói thế không làm giảm đi giá trị nghệ thuật của tập thơ. Điều làm nên giá trị đặc biệt của thơ Đỗ Trọng Khơi không chỉ là kỹ thuật hay tứ thơ, mà còn là xuất phát điểm sáng tạo. Một thân phận bị buộc phải gắn bó với giường bệnh từ nhỏ, nhưng ông đã không đầu hàng. Thơ với ông không chỉ là nghệ thuật mà là phương cách để thở, để tồn tại, để khẳng định mình.

Ông từng hỏi: “Tôi yêu mùa thu, phải vì thu có nét giống như người trọng bệnh là tôi?”, câu hỏi ấy vừa là lời tự thú vừa là một triết lý sống. Mùa thu, mùa của phai tàn nhưng cũng là mùa của sắc vàng rực rỡ, của trái chín viên mãn, đã trở thành người bạn đồng hành cùng ông trong suốt hành trình sáng tác.

Từ “cõi giới hạn” ấy, ông mở ra “cõi vô hạn” của thi ca. Thơ giúp ông vượt qua bệnh tật, vượt lên nỗi buồn, biến mùa thu thành tri kỷ, biến nỗi đau thành năng lượng sáng tạo. Cũng giống như Olga Berggolts biến mùa thu thành chứng nhân của niềm tin giữa chiến tranh, Đỗ Trọng Khơi biến mùa thu thành chỗ dựa tinh thần trong bệnh tật.

Tập "Ở thôn Trăng" của Đỗ Trọng Khơi cho thấy một thế giới mùa thu vừa quen thuộc vừa độc đáo. Ông biến mùa thu thành bức gương soi phận người, biến nỗi buồn thành vẻ đẹp, biến giới hạn thân phận thành cõi vô hạn thi ca.

Cái hay của thơ ông là sự đồng cảm giữa mùa thu và con người, là âm hưởng buồn đẹp nhưng không bi lụy, là triết lý nhân sinh toát ra từ từng chiếc lá vàng, từng làn sương mỏng. Những điểm cần mài dũa, sự lặp lại hình ảnh, sự kể lể, sự thiếu thử nghiệm, nếu được khắc phục, chắc chắn sẽ đưa thơ Khơi tiến xa hơn, sắc sảo và đa dạng hơn.

Nhưng ngay cả trong hiện tại, từ chiếc giường bệnh, một thi sĩ đã làm nên những vần thu xao xuyến lòng người. Và có lẽ, mỗi độ thu về, ta sẽ nhớ đến Đỗ Trọng Khơi như nhớ một người bạn đã chọn mùa thu làm ngôi nhà tinh thần, nơi cái đẹp mong manh trở thành vĩnh hằng.

——————

Đỗ Trọng khơi tên thật là Đỗ Xuân Khơi, sinh ngày 17/7/1960, quê tại Trần Xá, Văn Cẩm, Hưng Hà, Thái Bình (nay là Hưng Yên). Năm 8 tuổi, đang học lớp 1 thì ông bị bệnh viêm đa khớp dạng thấp, dính khớp teo cơ. Đến lớp 4, ông phải nghỉ học vì bệnh nặng, từ đó gắn liền với giường bệnh. Không để tháng ngày trôi uổng phí, ông tự học qua sách, bắt đầu sáng tác thơ, truyện, ca khúc từ cuối những năm 1980.

Năm 2001, ông được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Dù nằm nghiêng trên chiếc giường đơn sơ, gối đầu lên sách và bên cạnh chiếc máy tính cũ kỹ, ông vẫn xuất bản được 12 tập thơ, truyện ngắn, bình thơ và đoạt nhiều giải thưởng văn học uy tín.

Tác phẩm tiêu biểu:

- Con chim thiêng vẫn bay

Tháng mười thương mến

- Trước ngôi mộ thời gian

- Gọi làng.

Thơ Đỗ Trọng Khơi giàu chất suy tưởng, nặng lòng với nhân sinh, đặc biệt gắn bó với mùa thu – mùa của buồn đẹp, phai tàn và viên mãn.