Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

SLAWOMIR MROZEK

Lê Bá Thự giới thiệu và dịch
Thứ năm ngày 25 tháng 3 năm 2021 10:03 AM


 



Slawomir Mrozek, là nhà văn, kịch tác gia, họa sĩ biếm họa nổi tiếng của Ba Lan. Ông được tôn vinh là nhà văn trào phúng số một của đất nước đại bàng trắng tại vùng Đông Âu. Những tác phẩm châm biếm giầu tính bi hài của ông thường nêu lên vấn đề quan hệ giữa cá nhân với tập thể, những truyện trào phúng phê phán thói hư tật xấu là nhằm phản bác lối tư duy thấp kém, những nghịch lý của đời thường và phương cách giáo dục thô thiển. Truyện của S. Mrozek chứa đựng nhiều ý tứ, lắm triết lý và răn đời tinh tế. Có những truyện người ta phải đọc đi đọc lại nhiều lần mới cảm thụ hết được chiều sâu của tác phẩm, càng đọc càng phát hiện ra nhiều ý tưởng, càng suy ngẫm càng thấy hay. Lắm khi đoạn kết hoặc câu kết trong truyện ngắn của ông mang lại cho người đọc những bất ngờ thú vị.

Ngay từ những năm chín mươi của thế kỷ trước, Slawomir Mrozek đã trở thành một trong những thần tượng văn học Ba Lan của tôi. Truyện ngắn của ông như có ma lực, cuốn hút tôi một cách kỳ lạ. Và trong thực tế, truyện của ông như một thứ ma túy vô hình, đã khiến tôi phát thèm, “sinh nghiện”. Dịch truyện của ông lắm khi tôi ngồi cười một mình, tôi thích thú một mình, tôi “sướng” và khoái chí một mình. Tập truyện “Con voi”,với 85 truyện ngắn, do tôi dịch, Công ty sách Phương Nam và NXB Hội Nhà văn ấn hành, đã chứng tỏ tôi mến mộ và tôn sùng nhà văn này đến mức nào.

Trong số các tiểu thuyết và hàng chục tập truyện ngắn của ông phải kể đến: Những chiếc áo giáp tiện dụng (1953), Con voi (1957), Đám cưới ở Atomice (1959), Nhà tiến bộ (1960), Mưa, Cuộc chạy trốn về phương Nam (tiểu thuyết, 1961), Hai lá thư (1974), Tuyển tập truyện ngắn (tập 1,2,3 – 1999 – trên 400 truyện), Nhật ký trở về (1996). S. Mrozek đã viết trên 40 vở kịch, được rất nhiều nhà hát Ba Lan và nước ngoài dàn dựng, như: Cảnh sát (1958), Cực hình Piotr Ohey (1959), Xa khơi (1961), Karol (1962), Trò chơi và Đêm đen (1963), Waclaw (1970), Kiều dân (1974), Amor (1979), Ngài đại sứ (1984) và đặc biệt vở kịch Vũ điệu tango (1964) đã đưa ông lên vị thế kịch tác gia hàng đầu thế giới.

Slawomir Mrozek sinh 29.06.1930, qua đời ngày 15 tháng 8 năm 2013, tại thành phố Nice (Pháp), hưởng thọ 83 tuổi.

Dưới đâyxin trân trọng giới thiệu chùm truyện ngắn của ông.

TƯỢNG THI HÀO

Chúng tôi được cấp một khoản ngân quỹ để dựng tượng thi hào Adam Mickiewicz. Song vì có nhiều nhu cầu nên chúng tôi đã mượn tạm khoản tiền này để chi cho các việc khác. Thi hào vốn yêu quý dân tộc mình, cho nên chắc ông không phản đối. Tuy nhiên, sắp đến thời hạn khánh thành tượng với sự hiện diện của lãnh đạo cấp cao của địa phương. Chúng tôi bèn triệu tập một cuộc họp.

- Thưa các quý vị! - Giám đốc khai mào. - Tình hình gay. Thi hào đã có nhiều cống hiến, tiền đã được cấp, tượng đài không. Làm sao bây giờ?

Vấn đề cực kì nan giải. Bệ tượng thì dễ, chỉ cần một tảng đá to đặt lên vạt cỏ là xong. Nhưng hình người thì lấy đâu? Lại phải làm bằng đồng đỏ, đào đâu ra ngần ấy tiền. Còn phải thuê nghệ sĩ đúc tượng nữa chứ, khoản này cũng ngốn ối bạc.

Trong thị trấn của chúng tôi có một ông về hưu. Chúng tôi bèn đến gặp ông ta và đề nghị:

- Ông sẽ đứng trên bệ đá trong tư thế tượng đài và đóng vai Mickiewicz. Vinh dự cho ông mà lại được trả thù lao. Chỉ có điều, tuyệt nhiên ông không được nhúc nhích, dù chỉ là một milimét, không được nghiêng ngả, ngay cả gãi ngứa cũng không. Ông nghỉ hưu, ối thời gian, công việc nhẹ nhàng, ngoài trời, thoáng đãng, còn khoản thù lao ông sẽ được nhận cũng tốt cho ông.

- Tôi không đứng mà nằm có được không? - ông già nói. - Dạo này chân tôi yếu lắm.

- Ông muốn hơi bị nhiều đó. Trường hợp này là may cho ông, vì không phải là tượng Nữ thần chiến thắng. Nếu là Nữ thần chiến thắng thì ông phải đóng vai một phụ nữ, hở ngực, vác thanh kiếm nặng chịch, to đùng.

Lễ khánh thành diễn ra suôn sẻ. Trước mắt những người dự lễ, thi hào hiện hữu như còn sống. Ngài vận y phục đuôi dài, sách cắp nách, một tay cầm bút lông, tay kia chỉ về phía xa. Đầu đội vòng nguyệt quế.

- Đẹp, - đại diện chính quyền khen. - Rất thực. Phải cái nét mặt nom có vẻ không thông minh.

Một thời gian sau mọi chuyện đều tốt đẹp. Mỗi ngày tám tiếng ông già đứng trên tảng đá theo đúng yêu cầu, lúc nào đau chân thì lão sang ngồi bên quán rượu đối diện và đợi tín hiệu khi có đoàn tham quan hoặc khách đến xem. Khi đó ông già bò trở lại và đứng trên bệ tượng, có khi đầu lão hơi lắc lư, khách tham quan cứ nghĩ đó là taị gió. Mỗi năm lão được bốn tuần nghỉ phép. Lúc đó chúng tôi treo lên bệ tượng tấm biển đề “Tượng đưa đi tu bổ ”.

Nhưng rồi ông già bắt đầu yêu sách.

- Trong hợp đồng không nói gì đến khoản chim bồ câu, còn bây giờ chim bồ câu thường vô lễ đối với tôi. Tôi yêu cầu tăng thù lao.

Lão được chiều theo ý, nhưng ngần ấy với lão vẫn chưa đủ.

- Họ viết cả lên người tôi, - lão nói, - viết bằng bút chì hoặc bút bi thì không đến nỗi nào. Đằng này hôm qua có một thằng cha dùng đinh sắt nhọn viết lên người tôi: “Tôi đã đến đây. Zbyszek”.

Chúng tôi đành thêm cho lão một ít tiền, nhưng ngay cả như vậy cũng không xong. Yêu sách mỗi ngày một tăng.

- Là Mickiewicz, - lão nói, - thì tôi phải được đi Paris để nghiền ngẫm nét nhớ cố hương hiện trên gương mặt. Độ hai tuần là đủ.

Sang Paris thì quá lực tài chính của chúng tôi, rút cuộc chúng tôi đã gửi lão đi Matscơva. Lão tha hồ mà nhớ.

DIỄN VIÊN

Đám tang người diễn viên nổi tiếng diễn ra giữa mùa đông. Bão tuyết quất mạnh vào đầu để trần của những người dự lễ mai táng. Đám đông đứng quanh huyệt chưa lấp nghe điếu văn, họ phải ráng chịu, đợi giây phút khi các bài phát biểu hoàn tất, mỗi người sẽ thả một nắm đất xuống huyệt và rồi lại có thể đội mũ.

Lúc này chiếc mũ lông của một thân hữu của người quá cố, cũng là một diễn viên nổi tiếng, tuột khỏi tay anh ta và rơi xuống huyệt.

Tất cả mọi người đều nhìn thấy, nhưng không một ai để lộ là mình đích mục sở thị. Ai cũng hiểu rằng, người diễn viên kia lúc này thật là khó xử.

Bò xuống huyệt để lấy mũ chăng, không tiện. Để mũ nằm dưới đó chăng, có hoạ là đồ ngu. Chẳng những vì thế nào rồi cũng sẽ bị cảm lạnh, chẳng những vì sẽ phí mất chiếc mũ, mà cứ cho là như vậy đi. Cái chính là vì khi về đến nhà đầu óc sẽ bị ám ảnh, mình đang ở đây, còn mũ mình lại ở chỗ ấy, ở dưới mộ, cho dù là mộ người khác, rằng mũ mình nó đã đi trước mình và đang đợi mình dưới đó, thậm chí có khi nó sẽ gọi mình xuống - ôi, khủng khiếp quá.

Mọi người nhìn với vẻ ái ngại, anh ta làm gì bây giờ đây. Nhưng người diễn viên tỏ ra không hề nao núng, còn khi đến lượt mình anh ta phát biểu như thế này:

- Hỡi Người bạn quý mến và muôn năm thương tiếc của tôi ơi! Bạn từ giã chúng tôi vào ngày lạnh buốt như thế này. Thế mà ở nơi chín suối, một cái lạnh còn tê buốt hơn đang chờ bạn, cái lạnh Vĩnh hằng.

Anh ta ngừng giây lát và những người có mặt không thể không thán phục tài năng của người diễn viên này.

- Trong chuyến đi xa này tôi có thể tặng bạn cái gì được đây? Chỉ có nỗi buồn biệt ly khôn xiết của tôi, sự kìm nén không cho phép tôi nói: tuyệt vọng, còn biểu tượng cho thứ gần gũi tôi nhất, cái mũ đội đầu tôi. Phải, tôi xin tặng Bạn, tôi từ bỏ nó vì Bạn. Bởi lẽ ở đó, nơi bạn sắp đến, Bạn sẽ còn lạnh hơn chúng tôi ở nơi đây lúc này. Mong rằng dưới cõi âm chiếc mũ của tôi sẽ phục vụ bạn đắc lực như nó đã từng phục vụ tôi trên cõi trần.

Tiếng rì rầm thán phục nổi lên.

- Song, lạy trời! - chỗ này người diễn viên ôm đầu. - ... Tôi làm như vậy có phải không? Bạn từng nổi danh là người cực kỳ khiêm tốn, sự khách sáo và mọi cái hình thức bên ngoài đều xa lạ với Bạn, mà cái mũ này làm bằng da cáo vùng Xibêri, hầu như còn mới nguyên, giá những hai ngàn năm trăm zlôty. Phải chăng thay vì cung phụng cho Bạn, điều thể hiện tấm lòng thành của tôi, tôi không làm phiền lòng bạn vì sự phung phí của trần gian, sự xa hoa của thời nay, sự hào nhoáng đáng thương mà bạn đã luôn luôn chán ghét trên cõi trần và cũng sẽ không thích hợp dưới cõi âm? Cho nên, tôi bắt đầu thấy phân vân về giá trị của hành động của tôi, dẫu rằng tôi đã làm việc đó với niềm tin sâu sắc nhất.

Đám đông nín thở. Còn người diễn viên ra hiệu cho người thợ đào huyệt lấy chiếc mũ dưới huyệt lên đưa cho anh ta. Khi người thợ đào huyệt này làm theo yêu cầu, người nghệ sĩ cầm lấy chiếc mũ cát két cũ nát của anh ta, tay nâng chiếc mũ bên trên huyệt, ngừng một lát đoạn kết thúc:

- Xin Bạn hãy nhận thứ Bạn khả dĩ chọn, nếu như bạn có thể chọn!

Sau đó anh ta thả chiếc mũ cát két xuống huyệt bằng một cử chỉ hết mực thành tâm, được tính toán hết mực chính xác về thời gian và không gian, đến độ tiếng vỗ tay vang lên. Người diễn viên cúi khom người về phía mộ, nhưng chỉ một phần tư vòng quay. Ai cũng biết không được cúi chào quay mông vào khán giả.

Chẳng biết sau đó người nghệ sĩ có đền cho người thợ đào huyệt đồng nào về chiếc mũ cát két nọ. Một số người bảo rằng, anh ta chỉ bắt tay người thợ đào huyệt, khi người này không dám len qua đám đông người hâm mộ nghệ sĩ để đến đòi tiền. Có điều, một nghệ sĩ thực thụ thì không phải trả tiền, mà anh ta đúng là một nghệ sĩ thực thụ.

MẤT NGỦ VÌ LÔ GÍCH

Nhẽ ra tôi đã thiếp đi, nếu không đập vào lỗ tai tiếng uỵch từ bên kia tường.

- Thế đó, bắt đầu rồi đây, - tôi nghĩ bụng. Rồi sẽ y hệt như giai thoại người ta vẫn kể cho mà coi. Gã khách trọ ở phòng bên cởi một chiếc giầy khỏi chân, đoạn quăng xuống nền nhà kêu đánh uỵch. Bây giờ thì đố tôi ngủ được, chừng nào gã chưa cởi nốt chiếc giầy thứ hai. Mà có khi tôi phải chờ lâu đây.

Nhưng rồi tôi thấy nhẹ hẳn người, khi tiếng uỵch thứ hai vọng sang.

Tôi lại thiếp đi. Song khi bên kia tường vang lên tiếng uỵch thứ ba thì tôi giật mình tỉnh dậy.

Tôi lấy làm lạ. Chẳng lẽ gã láng giềng của tôi có tới ba cẳng hay sao? Vô lý. Hay là gã lại xỏ chân vào một chiếc giầy, rồi lại tháo ra lần nữa? Có hoạ là dở hơi. Vậy thì đích thị tôi có hai gã láng giềng rồi.

Thế là tôi bắt đầu bị hành hạ, đúng như tôi đã lường trước. Duy có một điều bảo tôi ráng chịu, đó là niềm hy vọng, đằng nào thì cũng đến lúc hắn, tức gã láng giềng thứ hai, phải cởi nốt chiếc giầy còn lại thôi. ấy vậy mà, đợi hết đêm, tôi vẫn không nghe thấy tiếng uỵch thứ hai, thực ra là thứ tư đâu cả.

Suốt đêm tôi không hề chợp mắt, sáng sớm tôi đi ăn sáng, người phờ phạc. Tại nhà ăn tôi gặp gã khách thuê phòng bên. Tôi đảo mắt nhìn quanh, đặng kiếm gã láng giềng thứ hai, nhưng chẳng thấy hắn ta đâu cả, chỉ một thôi. Gã kia chắc là say khướt, chân vẫn xỏ một chiếc giầy lăn quay ra ngủ một mạch cho đến tận giờ này.

Bên phòng ông có chuột không? - gã láng giềng hỏi tôi. Bên tôi có đấy. Chúng cứ làm sột soạt, nên tôi phải vớ một chiếc giầy ném cho chúng ngừng, - gã láng giềng nói tiếp.

Từ đó trở đi tôi không suy luận theo kiểu lô gích nữa. Một con chuột ngu mạnh hơn tất thảy mọi lô gích, còn lô gích chỉ tổ làm mất ngủ mà thôi.

SỰ ĐỜI

Có thời tôi rất khoái ngự ngoài ban công quan sát sự đời. Sự đời gợi trí tò mò của tôi mà.

Cho tới một lần tôi bắt gặp gã bộ hành đi cà nhắc một chân.

Chuyện đó thì chẳng có chi là lạ.

Độ một giờ sau tôi lại nhìn thấy gã, khi gã quay lại. Chân vẫn đi cà nhắc, nhưng lần này thì cà nhắc chân trái, mặc dầu lúc nãy gã cà nhắc chân phải.

Hiếm khi thấy như vậy.

Chẳng mấy chốc tôi nhìn thấy gã lần thứ ba, khi gã lại cuốc bộ qua chỗ phía dưới ban công tôi ngồi, lại cà nhắc chân phải.

Tôi bắt đầu lấy làm lạ.

Còn khi gã quay về, chân trái đi cà nhắc, thì tôi không kìm được nữa. Tôi vụt chạy xuống đường, đuổi theo gã, đoạn hỏi gã một cách lịch sự:

- Xin lỗi, tôi làm phiền anh, nhưng tôi để ý anh và không tài nào hiểu nổi: Duyên cớ gì mà lúc anh què chân phải, lúc lại què chân trái thế?

- Tôi? Làm gì có chuyện đó.

- Thì chính mắt tôi nom thấy mà.

- Ông nom thấy tôi?

- Chẳng lẽ tôi không có mắt hay sao?

- Vậy ông nom thấy tôi lúc nào?

- Lần cuối thì cách đây độ nửa giờ.

- Thế tôi đi về phía nào?

- Đằng kia...- và tôi chỉ tay về phía gã vừa từ đó lại đây.

- Đích thị hắn ta rồi! - gã thét lên, đoạn lê chân quay ngược trở lại.

Tôi đứng lặng một hồi lâu giữa phố, suy ngẫm về chuyện đánh đố của sự đời. Tôi toan bước vào cổng thì gã què lại xuất hiện từ phía gã biến vào đó lúc nãy, đi cà nhắc chân phải. Đúng, đích thị chân phải, chẳng phải chân trái, lại không phải là chân trái. Rồi gã đi ngang qua chỗ tôi đứng, ra bộ không nhìn thấy tôi, ra bộ không biết tôi, cứ như là lúc nãy chúng tôi không hề có trò chuyện với nhau gì hết.

Tôi hết chịu nổi. Tôi xốc tới tóm lấy vai gã.

- Ô không! Bây giờ thì ông anh hết lẩn tránh tôi rồi nhé. Cớ sao lúc này ông lại chuyển sang què chân phải và chung cục cái trò này là thế nào hả!

- Yêu cầu buông ngay tôi ra, bằng không tôi gọi cảnh sát bây giờ.

- Được, anh cứ đi mà gọi! Tôi là thành viên cộng đồng, tôi có quyền được thông tin! Tôi mà không được biết chuyện hư thực thế nào thì tôi phát điên lên mất và khi đã vậy anh phải gánh chịu tất thẩy! Anh sẽ phải trả phí trị bệnh! Anh sẽ phải trả lời trước công chúng.

- Thôi, xin ông bình tĩnh lại giùm. Chắc là ông đã nom thấy thằng em sinh đôi của tôi rồi. Là hai anh em sinh đôi, cho nên chúng tôi giống nhau như hai giọt nước vậy, mà tính tình hai đứa cũng hệt như nhau. Sáng nay hai anh em tôi vừa mới choảng nhau. Hắn đá tôi một cú làm tôi què chân phải. Tôi đá hắn một cú làm hắn què chân trái. Sau đó tôi quay về nhà lấy rìu - chỗ này gã rút từ trong túi ngực ra một chiếc rìu nhỏ xinh xắn, gã cho tôi xem đoạn cất trở lại - Còn bây giờ tôi đang lùng tìm hắn, vì chúng tôi phải thanh toán nốt với nhau. Khốn nỗi, đi tới rồi lại đi lui mà tôi vẫn không tìm thấy hắn, còn hắn chắc cũng đang lùng tìm tôi, hai đứa lạc nẻo nhau. Thế ông thấy hắn đi về phía nào vậy?

- Phía anh vừa từ đó lại đây.

- Xin đa tạ ông.

Và gã quay trở lại.

Còn tôi cũng quay trở lại, về nhà. Có điều không ra ngự ngoài ban công nữa. Bây giờ thì tôi ngồi trong nhà bếp, bởi tôi chẳng còn quan tâm theo dõi bất cứ điều gì nữa. Sự đời thật giản đơn, chỉ có óc tưởng tượng của tôi cứ làm cho nó rối rắm không cần thiết.

(Nguồn: Thời báo VĂN HỌC NGHỆ THUẬT – SỐ 11 – 18.03.2021.)