Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

CHÙM THƠ VIẾT VỀ GIAO THÔNG CỦA ĐẶNG CƯƠNG LĂNG

Nhà thơ Vũ Quần Phương
Thứ bẩy ngày 23 tháng 5 năm 2015 9:35 PM


Thời học trung học, Đặng Cương Lăng giỏi toán và giỏi cả văn. Nhưng anh lại vào Đại học Nông nghiệp. Lòng ham toán đành gác lại. Đôi khi trong giấc mơ còn toát mồ hôi khi thấy mình như kém dần môn toán. Còn môn văn, may quá, anh đã giải tỏa bằng thơ. Thơ làm chen túc tắc vào công việc khoa học nông nghiệp. Nhưng từ năm 2009 thì không thể nói là làm thơ túc tắc nữa, mà mỗi năm anh xuất bản một tập. Viết như thế là siêng năng, hào hứng. Nhưng in ra thì lại chẳng nên mau như thế. Đành rằng, tác giả đang cơn mê thơ và hào hứng tự tin. Đành rằng, đó là cảm giác hạnh phúc của người viết, không dễ gì có được. Nhưng cái “nghề thơ cũng lắm công phu” này. Cần say mà cũng cần tỉnh. Có đại giác thì mới sinh đại mộng. Làm thơ, chứ đừng để bị “thơ làm”.

Tôi đã đọc các tập thơ anh Đặng Cương Lăng gửi cho, bên cạnh nỗi phấp phỏng cho cơn hăm hở của anh, trong tôi cũng lớn dần một hy vọng khi thấy thơ anh tập sau luôn luôn có một khía cạnh nào đấy hơn tập trước. Từ giãi bày tình cảm anh đã tiến dần sang bộc lộ tư tưởng, hình thành những nhận thức, những bình giá, những phát hiện các vấn đề của đời sống, của lòng người. Ở tập thơ này, từ đề tài cụ thể, anh phát hiện ra chủ đề có tính khái quát. Không phát hiện bằng bình luận qua nghĩa câu, nghĩa chữ mà bằng ý nghĩa của tứ thơ, qua tính biểu tượng của hình ảnh (hình tượng). Một bài thơ ca ngợi con đường trong chùm thơ về giao thông, chủ đề cốt lõi của tập thơ này. Từ con đường nơi người đi xe chạy, anh đã đụng tới con đường mang nghĩa khái quát, con đường trong lời Chúa Giê su: Ta là con đường. Con đường, âm Hán Việt đọc là đạo. Cũng là chữ đạo trong đạo lý, chữ đạo chỉ tôn giáo (Đạo Phật, đạo Lão), chữ Đạo chỉ Thiên chúa giáo (đi Đạo). Chất thơ ở Đặng Cương Lăng không đi từ khái niệm ngôn ngữ (như tôi nói trên) mà anh xuất phát từ đời sống. Đường hình tượng, do vậy ngắn hơn, dễ đi hơn đường khái niệm mà chỗ đến lại như nhau. Thế cho nên người đời mới cần thơ. Nhận thức của thơ mới thành ấn tượng ở lại bền dai trong tâm trí người đọc. Lý do tồn tại của cái thứ người gọi là nhà thơ là ở đấy, ở một kiểu thao tác của tư duy từ thật đến ảo, từ một cụ thể thành khái quát của vô số. Thử khảo sát một mạch tư duy thơ Đặng Cương Lăng trong bài thơ Con đường hẹn ước:

Những con đường

Mưa mùa hạ

Nắng mùa đông

Những con đường

Mùa xuân

Ngút ngàn thương nhớ

Những con đường vươn mình bươn bải

Rét mướt về thấu thịt thấu da

Những con đường hướng ra biển cả

Giông tố nào rình rập gần xa

Những con đường chứa chan hẹn ước

Dấu chân người hẹn với bao la.

Con đường của không gian được phổ thêm sức sống, được sinh động hóa bằng cách đồng hành nó với thời gian (các mùa, các thời tiết), đông nắng, hạ mưa, nhưng đến xuân thì không phải chỉ thời tiết của thiên nhiên mà còn có “thời tiết” của lòng người. Sáu câu thơ này có hai cấp khái quát với hình ảnh từ cụ thể (nắng mưa) mở dần sang trừu tượng (ngút ngàn thương nhớ). Cái thủ pháp dịch chuyển tiệm tiến ấy đem phân tích lớp lang thế này tưởng như một dụng ý của người viết, thực ra khi viết nó đến ngẫu nhiên, do tác động của cảm hứng. Cảm hứng đi từ con đường khi nắng khi mưa ai cũng từng gặp tới con đường thương nhớ ngút ngàn vốn là cõi riêng của cảm xúc tác giả. Vì với người khác, có khi con đường không gợi thương nhớ mà có thể lại gợi buồn tiếc. Tiếc một mối tình đã vĩnh viễn ở đây hoặc một cái ví bị mất cắp. Nghĩa là cái hướng của tình cảm tác giả nó dắt câu thơ đi. Đoạn hai, thơ sang sự nghĩ ngợi (trong thơ Đường là từ thực sang luận). Con đường cụ thể, có thật đã lẫn vào con đường khái quát: đường đời. Ở đấy có gian khổ, có hy vọng, có tai ương. Thơ miêu tả bối cảnh khách quan của đời, nhưng lại để lộ bản lĩnh của người: chấp nhận rét mướt, giông tố, chấp nhận bươn bải, gian lao. Con đường đến đây đã mang ý nghĩa của đạo rồi. Ý kết, cũng là chỗ đến của bài thơ, trở lại ý của đầu bài: hẹn ước. Con đường, với dấu chân người in trên mặt đất đã thành lời hẹn ước với bao la. Bút pháp bài thơ ẩn dấu một tư thế trí tuệ của người viết. Đặng Cương Lăng đang tách dần khỏi lối viết, kể cảm xúc, thật thà giãi bày cảm nghĩ sang cách nói bằng hình tượng, bằng tứ thơ ôm vào toàn khối của bài. Đây là một thành công, một khuynh hướng phát triển đáng mừng được thấy ở các cây bút vào thơ khi tuổi đời đã lớn, khi họ đã là một cán bộ vững chãi ở nhiều ngành hoạt động khác biệt với thơ. Ở họ, đã có sự từng trải đời sống trực tiếp lại có sự tích lũy kiến thức từ sách vở. Mấy năm nay, bên cạnh một hình thành Đặng Cương Lăng, còn thấy một Khuất Bình Nguyên tương tự. Cả hai đều đã nhanh chóng trở thành hội viên Hội nhà văn Việt Nam.

Một khía cạnh nữa giúp vào sự thành công của Đặng Cương Lăng, ấy là cảm hứng. Cảm hứng, một nhân tố tùy thuộc nhiều vào năng khiếu, như một thứ trời cho. Nhận thức ở thơ có thể nảy sinh từ trí tuệ. Trí tuệ sách vở hoặc trí tuệ thể nghiệm từ đời sống. Nhưng tế bào cảm xúc, cảm giác hay sức sống tự phát của bài thơ lại sinh thành từ cảm hứng. Bài thơ Chiếc cầu một dây như không bận tâm đến điều cần nói mà thơ vọt ra là từ cảm giác. Lấy cảm giác làm xuất phát. Cảm giác lạ của bờ, cảm giác rộng của sông, cảm giác chênh vênh của cầu, chiếc cầu có một dây nghiêng ngả, nguy hiểm, treo bao thân phận. Vậy mà đứa trẻ đến lớp, chỉ đến lớp thôi, cũng phải thử mạng mình qua đó. Với người, qua cầu như qua cửa tử. Nhưng với cầu, sống chết của người chỉ là chuyện thường ngày của nó. Nó cứ bình thản trầm ngâm đứng đợi. Đợi như chơi mà chết người ta. Bài thơ gợi cảm giác nhưng chỗ đến của nó lại là một nhận thức. Tạo ra hài hòa giữa chỗ đến trí tuệ của bài với chỗ xuất phát và vận động (ngỡ như hồn nhiên) của tình là vai trò của cảm hứng. Đấy cũng là chỗ hơn của tập Vượt dốc này so với các tập trước.

Rời nhà là gặp đường. Câu thơ mở đầu bài Những con đường, dễ dàng như một câu nói về một sự, ngỡ như là đương nhiên. Đương nhiên như nói dưới trời là đất. Nhưng nếu nghĩ câu nói ấy đã đề cao đất hay hạ độ thiêng liêng của trời thì câu nói đã thành câu thơ, một câu thơ không dễ có. Không dễ khi định viết nhưng lại không khó khi viết ra. Nó như tự đến. Vì thế nên người đời mới nghĩ là trời cho. Trời cho nhưng người phải biết dùng. Sau câu rời nhà là gặp đường, nghĩa là đường chiếm toàn bộ môi trường hoạt động của người, đường thành đời người rồi, thơ phải phát triển về đâu để duy trì cảm hứng, để bộc lộ chủ đề. Phần đầu của bài thơ là xuất sắc. Phần hai đã trùng lặp. Phần cuối, hai câu kết phải mượn ý Lỗ Tấn, mà lại thành khóa bài thơ lại. Ngược lại, ở bài Nói với con trai về cầu vượt thì ý kết lại mở ra diện rộng cho bài thơ:

Những ngả đường con qua

Cần rất nhiều cầu vượt

Những hành trình con qua

Còn nhiều cầu để vượt.

Ở bài Mai này, với hai chất liệu là nước và đất, ý thơ chiếm lĩnh toàn bộ nhân gian, chủ đề thơ mang tư tưởng rộng như triết học nhưng là thứ triết cảm nhận trực giác được bằng cảm giác của người về nước. Nó có sóng, nó động.

Để phác ra diện mạo bút pháp của Đặng Cương Lăng tôi buộc phải nhập vào cõi cụ thể của mấy bài thơ trong tập. Tưởng cũng đã đủ để thấy Đặng Cương Lăng đang khám phá, phát triển. Dù rằng không phải anh đã hoàn toàn chủ động và luôn luôn đến đích. Nhiều chỗ anh còn lúng túng. Không biết tiến cách nào thì dậm chân tại chỗ. Ở bài Đường đến đích, anh cũng hỏi sông, hỏi núi. Sông và núi trả lời sâu sắc. Nhưng khi hỏi người, cũng là chỗ đến của bài thơ, thì anh không biết ứng xử thế nào, đành cho người nói đại. Đại ngôn và cũng đại chung chung: Hỏi người/ Người bảo/ Đường muôn ngả.

Đi cho đến chỗ phải đến của bài thơ là điều Đặng Cương Lăng cần tính liệu. Xới đất rồi thì phải trồng rau. Bài thơ mở ra đến quy mô nào thì kết thúc cũng phải từ tầm vóc của quy mô ấy.

Hướng thơ vào chủ để có sức nặng tư tưởng là một đáp ứng đòi hỏi của bạn đọc hôm nay. Ở thế kỷ trước là một đòi hỏi thiên về tình cảm, tự do tình cảm. Ở thế kỷ này, sự đòi hỏi, theo tôi, lại là nhận thức, tư tưởng, tự do tư tưởng. Hình như Đặng Cương Lăng đã có mối quan tâm ấy. Đó là một thế thuận tự lòng anh để thơ anh tiến triển trên một bình diện cao. Nhưng đã là thơ thì bao giờ cũng cần đập thẳng vào trái tim người đọc. Trí tuệ, nhận thức của thơ nhập vào người đọc là nhập qua kênh tình cảm. Chúng ta không nên sa lầy vào những cơn lụt lội duy cảm. Nhưng thơ không thể là nhận thức chay. Bài thơ hai câu:

Đời cho tôi: những củ khoai củ sắn

Đời đòi tôi: những câu thơ lá ngọc cành vàng

Đã đủ là thơ chưa? Không phải chỉ vì nó chỏng chơ lý sự mà còn vì ngay trong cõi lý sự nó đã có sức thuyết phục chưa. Những kiểu lập ngôn này, tôi nghĩ, anh Lăng nên thận trọng. Nghĩ đi thì cũng phải nghĩ lại chứ lý sự kiểu này thì con bò được quyền phát ngôn hơn chúng ta. Nó ăn cỏ thôi mà nhưng lại cho đời sữa, thịt, toàn protit cao cấp.

Tôi thích thú gặp trong tập thơ này, không ít mạch thơ Đặng Cương Lăng nhập đề tài hồn nhiên bằng cảm xúc, rủ rê tâm trí người đọc nhập theo, rất nhẹ nhàng mà chỗ đến vẫn sâu sắc thấm thía. Bài thơ Kiếp người sáu câu ngắn ngủi này, hết mà như còn. Hết câu, hết chữ nhưng người đọc còn ngân nga nghĩ tiếp:

Thấp như ngọn cỏ

Cao như trời sao

Kiếp nào bể khổ

Kiếp nào thanh cao

Cười rơi nước mắt

Xót xa kiếp nào?

Tác giả chưa có câu trả lời. Chỗ hết của bài thơ vẫn là một dấu hỏi. Nhưng treo lại cái câu hỏi của nghìn đời ấy vào thời buổi khoa học nhân loại đã rất tiến hóa này vẫn là một cách đánh thức. Cái nghịch lý của đời thu trong một câu tỉnh táo Cười rơi nước mắt. Sau đó là một câu hỏi không mong lời đáp, một trầm ngâm thế sự. Cảm và nghĩ hài hòa rất tự nhiên. Phát triển tính trí tuệ cho thơ cần lắm một cách nói bằng tứ. Đưa trí tuệ thấm vào trái tim con người thì lại cần cảm xúc. Đặng Cương Lăng đều đã có cả hai yếu tố ấy. Nhưng làm thế nào để cả hai yếu tố cùng tồn tại duyên dáng ý nhị trong mỗi bài thơ như đã từng tồn tại trong những bài tiêu biểu của tập thơ này là tùy thuộc tài năng anh. Là kết quả và cũng là biểu hiện của tài năng anh.

Nội, 28-10-2014

V.Q.P

Tập thơ Vượt dốc

ĐƯỜNG VỀ ĐIỆN BIÊN

Đã xa rồi

Con đường bom đạn

Nhưng Pha Đin cây còn vấn vương

Lũng Lô hoa vẫn nở trắng trời

Vẫn thân thiết Him Lam

Vẫn cận kề Hồng Cúm

Vẫn gần gũi Mường Thanh

Không xa xôi Nậm Rốn

Những con đường như máu thịt, người ơi!

Và mỗi ngọn núi, quả đồi

Mỗi dòng suối, con sông nặng lòng thủa ấy

Như vẫn hết mình đến tận hôm nay.

Cả khúc trường kỳ hiển hiện sáng nay

Những lối đi bazôka, những nẻo về trấn thủ

Điệp khúc hành quân xa ngút ngàn gian khó

Theo ta về: Một ngả Chín năm

Những con đường vang mãi khúc Điện Biên.

CON ĐƯỜNG HẸN ƯỚC

Những con đường

Mưa mùa hạ

Nắng mùa đông…

Những con đường

Mùa xuân

Ngút ngàn thương nhớ?

Những con đường vươn mình bươn bải

Rét mướt về thấu thịt thấu da

Những con đường hướng ra biển cả

Giông tố nào rình rập gần xa?

Những con đường chứa chan hẹn ước

Dấu chân người hẹn với bao la.

ĐƯỜNG CHÚNG TÔI ĐẾN TRƯỜNG

Lời những sinh viên là bộ đội đi học

Từ nhà tôi đến trường Đại học Nông nghiệp

Ô tô chạy hết mười lăm phút

Vậy mà tôi đến được cổng trường vừa hết trọn sáu năm.

Từ nhà tôi đến trường Đại học Nông nghiệp

Chỉ có bảy cây số

Vậy mà tôi lại đến trường vòng qua mũi Cà Mau.

Những người lính chúng tôi vẫn quen lối đi rừng

Chân người sau giẫm dấu chân người trước

Đến trường bằng con đường thật xa

Để từ trang sách đến cuộc đời rút ngắn dần khoảng cách.

NHỮNG CON ĐƯỜNG

Rời nhà là gặp đường

Những con đường dẫn ta về muôn ngả

Trên đất liền

Trên sông

Trên biển…

Dằng dặc Trường Sơn một thuở

Hun hút Năm Căn một thời

Phía trước những con đường luôn có ngã ba chia ly

Có ngã tư sum họp

Và cả ngã năm, ngã sáu, ngã bảy mất mát

Những người lính ra đi không hẹn ngày về.

&

Rời nhà là gặp đường

Những con đường mở ra muôn lối

Trên đất liền

Trên sông

Trên biển…

Rộn ràng hôm qua

Vội vã hôm nay

Những con đường hứa hẹn một ban mai

Những con đường hứa hẹn một rộng dài

Chẳng dễ gì đoán được.

Điều quan trọng: Tất cả đều háo hức

Cùng nhập vào cái đích cuộc hành trình.

&

Rời nhà là gặp đường

Đường ngay dưới chân.

TRÊN ĐƯỜNG

Cấm rẽ trái tức là được rẽ phải

Cấm rẽ phải tức là được rẽ trái

Đường một chiều, một chiều đi mãi.

Những con đường gặp gỡ những con đường

Những con đường tiếp nối những con đường

Những con đường liên thông như mạch máu.

Những con đường dẫn ta về phía trước

Ngày mỗi ngày thêm gắn bó giao thông

Những đôi chân quyến luyến con đường
.

ĐƯỜNG RA BIỂN

Đường ra biển không cao

Nhưng phải leo lên sóng

Sóng ở trên đầu

Sóng ở dưới chân.

Đường ra Trường Sa không xa

Đường đến Hoàng Sa có thể là gang tấc

Biển đảo quê hương ở ngay giữa lòng mình.

Đường tới nhà giàn gặp bao mộ gió

Cột mốc nào cũng gắn bó Trường Sa

Cột mốc nào cũng gắn bó Hoàng Sa.

Bao nhiêu năm

Kể từ khi năm mươi người con theo cha xuống biển*

Con đường nào cũng máu thịt dân ta.

- - - - - - - - - - - - - - -

* Lấy từ tích Lạc Long Quân – Âu Cơ xa xưa.