Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

NHÀ VĂN KHÔNG MANG THẺ VẪN CÓ TÁC PHẨM HAY

Nguyễn Khắc Phê
Thứ hai ngày 18 tháng 5 năm 2015 5:30 AM



Hơn 10 ngày rồi không đưa dòng nào lên mạng, mặc dù trên văn đàn chuyện “vô-ra” Hội Nhà văn đang được nhiều người quan tâm. Có rất nhiều cách phán xét. Có một bạn yêu văn chương ở Sài Gòn viết thư cho tôi có câu: “Không phải ai cũng nghĩ người ra Hội là tốt, người ở lại là xấu.” Đây cũng là một cách nghĩ phải chăng. Tôi cũng định lên tiếng, nhưng bàn chuyện này cho thấu đáo thì phải viết hẳn một tiểu luận 5-10 trang. Quá mất công và có lẽ trong “cơ chế” này, hình như mọi lời bàn bạc “phải trái” dù rất tâm huyết đều vô ích, như “gió vào nhà trống” vì… “đã có trên chỉ đạo rồi”! Đã thế thì để thì giờ làm việc khác có ích hơn, ví như viết bài giới thiệu một cuốn sách hay mà chưa phải ai cũng biết …Vì thế tôi đưa tiếp sau đây bài giới thiệu sách của một cây bút không phải là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. (Bài đã đăng trên báo Văn nghệ só 15, ngày 11/4, nhưng Tòa soạn “quên” không ghi tên tác giả! Đã hơn 1 tháng qua, nhưng chưa thấy gửi báo biếu, nhuận bút, cũng chưa “đính chính”, nên đây cũng là dịp để “xác định bản quyền”!) Tôi làm điều này cũng vì hôm qua vừa dự buổi ra mắt tập thơ “Kinh Phù hoa” của Trần Duy Phiên, lại là một “nhà văn không phải hội viên”, mà theo tôi nhiều truyện ngắn của anh có thể đặt ở một “đẳng cấp” cao hơn nhiều sáng tác của không ít nhà-văn-hội viên. Thì cũng như thơ Trần Vàng Sao, nhiều người cho là hay hơn nhiều thơ của không ít nhà thơ “có thẻ”, nhưng chúng tôi muốn anh làm hồ sơ để xét kết nạp, nhất định anh không làm! Đây cũng là một “ý kiến” liên quan chuyện “vô-ra” Hội Nhà văn. Tất nhiên, nói cho công bằng, thì có không it nhà văn, nhà thơ “có thẻ” cũng có tác phẩm hay… Thôi, nói chuyện “Hội Nhà văn” lúc này hơi bị… buồn; bạn chịu khó đọc bài dưới đây sẽ thấy vui hơn. (Ảnh kèm bài: Bìa sách “Kiếp Ba Khía” và “Nhà văn Trần Duy Phiên bên tập thơ vừa xuất bản”)

TỪ “KIẾP BA KHÍA” NGẪM SỰ ĐỜI

(Đọc “Kiếp Ba Khía”, Tập truyện ngắn của Trần Bảo Định,

NXB Văn hoá Văn nghệ, 1/2015)

“Kiếp Ba Khía” (KBK) là truyện cuối tập truyện ngắn đầu tay cùng tên của “nhà văn trẻ” Trần Bảo Định (TBĐ). Trước hết xin có đôi dòng về tác giả và tên truyện có lẽ còn mới lạ - nhất là với bạn đọc ít có dịp về miền biển cực Nam Tổ Quốc. Ba Khía là con vật thuộc họ “nhà cua”, trên lưng có 3 gạch như ai đó lấy dao khía vào. Dân gian cho rằng đó là biểu tượng của 3 lớp rừng cây (mắm, đước, tràm) chắn sóng, giữ đất vùng ven biển Cà Mâu. Tôi gọi TBĐ là “nhà văn trẻ” vì đây là tập truyện đầu tay, nhưng ông vừa qua tuổi 70! Trước tác phẩm này, TBĐ đã xuất bản 4 tập thơ, nhưng phần nhiều là thơ “làm cho vui” và để đáp ơn nghĩa của làng quê, thầy và vợ. TBĐ quê Long An, cựu sinh viên văn khoa Đại học Đà Lạt trước 1975, lại đã nhiều năm hoạt động, lăn lộn gần gũi với nhiều tầng lớp - từ dân nghèo cho đến cấp cao, nên tác phẩm đầu tay đã tạo nên được một phong cách riêng, đúng như nhà văn Bích Ngân đã nhận xét:

“…Tác giả sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ Nam Bộ một cách dân dã, hài hước, thú vị qua những sự đời, sự người, sự vật… với tính cách riêng, bằng vốn sống tích lũy và sự am hiểu sâu rộng của mình…”

Công bằng mà nói, không phải 17 truyện trong KBK đều hay. Ngay truyện tác giả lấy làm tên cho cả tập sách cũng không xuất sắc; có lẽ vì TBĐ thương cho kiếp con Ba Khía bao đời sống quần tụ trong rừng mắm đước - nó cũng có “những ngày hội, những đêm sáng trăng rủ bạn tình bám chang đước nhỏ to, chăn gối…” - hết bị B.52 rải thảm đến thuốc khai quang, nay hòa bình lại bị con người phá rừng, phải sống cầm tù trong các trại nuôi nhân tạo chỉ để làm mồi cho các bợm nhậu, nên ông đã “mượn” con Ba Khía làm “biểu tượng” cho bao phận người đã bị quăng quật trên vùng đất mở phía Nam của Tổ Quốc.

Quả là nhiều truyện trong KBK - mặc dù tác giả, vì lẽ này lẽ khác, hình như chưa (hoặc không muốn) đề cập sâu những vấn đề xã hội nóng bỏng, nhưng là người đã sống cùng nhân dân và đất nước trong giai đoạn lịch sử đầy những biến cố vừa qua - nhiều trang viết của TBĐ đã chạm đến những số phận không thể gọi là “bi kịch lạc quan” (như tên một vở kịch nổi tiếng của Liên Xô trước đây) trải qua những bước ngoặt lớn của dân tộc như sự kiện hai miền chia đôi sau năm 1954, đến cải tạo tư sản, đổi tiền, vượt biên, mượn phép thu hồi đất của dân để bán cho các “nhóm lợi ích”… Chỉ một cuộc đời của vợ chồng thầy giáo Huy (truyện “Chuyện người”), đã khiến chúng ta phải ngẫm nghĩ nhiều về bài học “đối nhân xử thế”. Từ 1976, vì lòng tự trọng, không chịu mang tiếng “lưu dung”, thầy đi vùng kinh tế mới, khi quân Pôn-Pốt tràn qua Hà Tiên, vợ chồng thầy không bỏ về Sài Gòn cầu an mà gia nhập Đội dân công hỏa tuyến và đã hy sinh lúc cõng một thương binh ra khỏi vùng lửa đạn…

Cái độc đáo của TBĐ là trong một truyện bi thương như thế, vẫn “gài” được chi tiết hài hước, như chuyện bác Sáu kể chị sui (thông gia) trong đêm ngoắt tay ba lần, tưởng chị rủ sang… ngủ chung; ai dè chị kêu lên: “Mèn đéc ơi, tui phát tay là để tắt cái đèn bóng…dầu dạo này khan hiếm lắm…” đến nỗi vợ chồng Huy nhiều bữa cơm phải “ăn thầm”! Một cái cười ra nước mắt trước hậu quả của cách quản lý sai lầm khiến cả một miền đất trù phú trở nên thiếu thốn mọi thứ! Và không chỉ hài hước, bác Sáu - người chí cốt với cách mạng, ba đứa con tham gia kháng chiến, ngày về chỉ còn một - cũng là người đã nói thẳng vào mặt cán bộ: “Hồi còn chiến tranh, tui đào hầm nuôi mấy cha nội nầy, họ nói hay lắm, khi có quyền lực thì làm dở ẹc, tính toán thua mấy đứa con buôn… sách nhiễu dân, làm lòng người oán thán. Thượng bất chánh, hạ tắc loạn…”

Có lẽ KBK vừa xuất bản đã bán hết và đang tái bản là nhờ song hành cả hai yếu tố - sự hài hước và nỗi đau đời - qua nhiều trang sách. Từ truyện “Chữ nghĩa” đầu tập sách, đến chuyện “cạ rốn” chữa đau bụng (“Chuyện đời”), rồi truyện “Thằng Mẫm Đực” giải câu đố kiểu “đố tục giảng thanh”, chuyện Cả Khịa “bứt dây lưng quần chị nghe cái “bực” rồi làm “động tác sàng gạo lia lịa trên mình chị” (truyện “Chơi mà chối”) … đều được thể hiện với giọng điệu hồn nhiên “zui zẻ”, thậm chí có cả “sex” nữa, đậm chất dân gian và luôn gắn với những phận người đã chịu bao nỗi đắng cay, thua thiệt.

Có lẽ nhờ thế mà KBK không thiếu bi kịch nhưng đồng thời lại toát lên sức sống bất diệt của một vùng đất giàu tiềm năng của Tổ Quốc…

“…Bảy Củ mần “hết sẩy” cá lóc nướng trui, thì Sáu - con gái ông Tám chủ đìa, cũng vừa mần xong trải đệm, sắp xếp và dọn đồ mồi còn tươi rói: lá sen non, đọt xoài, đọt vừng, đọt mọt, lá điều non, húng lủi, quế vị, chuối chát, khế chua… đặt lên mặt những tàu lá chuối xanh mượt. Bánh tráng, mắm nêm, muối ớt… quyện vào hương vị cá lóc nướng trui, tạo thành chất men đồng quê háo hức làm nước miếng ứa ra trong miệng…”

Chỉ một đoạn văn ngắn (truyện “Mùa tát đìa cuối cùng”) đã đầy ắp phong vị một miền đất hào phóng, nồng nàn tình người, mời gọi bạn đọc đến với KBK…