Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

"Sóng hận sông Lô" dội đến Trường Sa

Lê Mai - Nhật Tuấn
Chủ nhật ngày 11 tháng 8 năm 2013 7:08 AM

(Nhân đọc cuốn “Sóng hận sông Lô” của Vũ Ngọc Tiến-
NXB Hội nhà văn 7/2013)

 Lê Mai
Hội Nhà văn Hà Nội

Vũ Ngọc Tiến sinh năm Bính Tuất (1946) ở làng Bưởi, nay là phường Bưởi, quận Tây Hồ- Hà Nội. Ờ mà đất Hà Thành cũng lạ, năm 1946 giữa khói lửa ngút trời của chiến tranh chống Pháp bỗng dưng đẻ ra một đám linh cẩu sau này cùng theo đuổi nghiệp văn: Nguyễn Mạnh Tuấn, Chu Lai, Hòa Vang, Nguyễn Đình Chính, Vũ Ngọc Tiến… Họ mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một hoàn cảnh xuất thân, một cá tính thẩm mỹ; kẻ sớm người muộn bước vào văn đàn, đều để lại những tác phẩm đáng mặt là những chàng trai sinh trưởng nơi mảnh đất ngàn năm văn vật…  
Chúng ta đã quen với lối viết bảng lảng sương khói, thâm trầm, giàu trí tuệ, có lúc quyết liệt của chú linh cẩu Vũ Ngọc Tiến với những Khói mây Yên Tử, Rồng đá, Gà ô tử mỵ, Vị phồn thực… đặc biệt là Chù Mìn Phủ và tôi - một truyện ngắn đặc sắc về cuộc chiến Việt - Trung tháng 2/1979. Nếu đem so sánh nó với Ma chiến hữu của Mạc Ngôn thì chẳng biết mèo nào cắn mỉu nào, nhưng số phận hai tác phẩm lại trái ngược đến phi lý mà năm 2008 ai ai cũng rõ!? Ngay cả khi anh viết sex thì cái sex ấy luôn được tiết chế và chứa đựng một tư tưởng. Ai không tin hãy đọc lại truyện ngắn Rồng đá thì khắc biết. Rồng đá là biểu tượng của quyền uy, thế mà trên cơ thể nó, chỗ nào, kể cả cái mặt rồng nếu được lũ trẻ con trong làng cởi truồng trèo lên, tụt xuống, gí chim chịn bướm vào là chỗ đó sáng lên, còn không thì mốc thếch, nhện chăng rêu bám… Hay như trong truyện ngắn Vị phồn thực, chị vợ viên trung tá VNCH vạch vú đang cương sữa nhét vào miệng anh lính VC đang bị thương sắp chết và kêu khát. Anh vừa sợ vừa ngượng, nhả vú ra, lắc đầu quầy quậy làm chị nổi cáu tát cho một cái và quát: “Đang đêm giữa rừng, tìm đâu ra nước, muốn chết hay muốn sống, hử?!...” Đọc “Sóng hận sông Lô” tôi hơi tiếc vì cái phong vị quen thuộc ấy của tác giả dường như bị cất giấu đi nhiều để anh thử nghiệm cái gọi là “Tiểu thuyết giáo trình”. Duy chỉ có cái “vị tham” - tham kiến thức, vốn vừa là  ưu điểm vừa là nhược điểm của Vũ Ngọc Tiến là còn hiện rõ. Cái đó phù hợp với loại “Tiểu thuyết giáo trình“ chăng? Tôi không biết nữa! Thôi thì cái phần lý luận văn học về chủ nghĩa này, trường phái nọ trong tiểu thuyết hãy nhường lời cho các nhà phê bình, tôi chỉ muốn bàn sâu về một vài mạch truyện làm nên tư tưởng tác giả xuyên suốt trong cuốn sách này mà thôi.
Trong “Sóng hận sông Lô”, tác giả muốn kể ta nghe về cái chết tức tưởi oan khuất của đại công thần Trần Nguyên Hãn. Nhưng sao anh lại kể rộng thế? Nhiều sự kiện thế? Nhiều nhân vật chính thế? Nhiều kiến thức về địa lý, sử học, triết học, tôn giáo thế?... Phải chăng tác giả muốn chứng minh và giảng bài cho ngài Bộ trưởng Bộ GD&ĐT thấy anh thực sự lo lắng cho thực trạng:
Dân ta chẳng biết sử ta
Lại cứ vanh vách nói ra sử Tàu!
Thực trạng dạy và học lớt phớt bộ môn lịch sử trong các trường Phổ thông và Đại học đã khiến Vũ Ngọc Tiến âm thầm suy ngẫm, luận giải về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, chia nó thành 3 giai đoạn Phòng ngự (1418- 1423), Cầm cự (1423- 1426) và Tổng tiến công (1426- 1428) để tôn vinh vai trò của đội ngũ trí thức - là một phát hiện độc đáo chưa có trong các giáo trình và sách giáo khoa.
Phải chăng khi viết “Sóng hận sông Lô”, trong tâm thế tác giả sôi lên niềm tự hào về nhà Trần 3 lần thắng giặc Nguyên - Mông, giữ vững nền độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ suốt 175 năm.  Còn chiến thắng quân sự lẫy lừng đời Lê kết hợp với chiến thắng của lòng nhân ái (Hội thề Đông Quan) đã dập tắt nguy cơ Bắc thuộc lần thứ hai: “Trẫm lâu nay vẫn giữ kín với cháu một điều, trong câu chuyện về giấc mộng lạ kỳ trên núi Sóc ở huyện Vĩnh Lộc, quê của Trịnh Khả. Hôm đó vua Lê Đại Hành đã báo mộng rằng, 100 năm sau cơ nghiệp họ Lê tưởng chừng bị mất, may nhờ ở chân núi Sóc xuất hiện nhân tài họ Trịnh đứng ra phò giúp vua Lê lấy lại kinh đô, kiến tạo nên triều Lê Trung Hưng kéo dài thêm 250 năm nữa” (trang 326). Vậy nếu cộng thêm 66 năm nội chiến Lê - Mạc thì triều Lê tổng cộng kéo dài hơn 400 năm. Thật là bài học sâu sắc, đáng giá.
Phải chăng qua “Sóng hận sông Lô”, tác giả cũng ngầm trao đổi với ta một cách nhìn mới về tài- đức của bậc lãnh tụ. Người bình thường như chúng ta tài- đức được phân biệt rạch ròi, có hồng  và có chuyên. Nhưng đối với một bậc quân vương thì tài và đức cũng như anh hùng và gian hùng hòa lẫn với nhau khó tách biệt. Phải chăng thế mà một Lê Lợi thô tục, đầy rẫy thói hư tật xấu, thậm chí đa nghi, nham hiểm, nhưng ông quá tài, quá giỏi trong tầm nhìn chiến lược, thuật dùng người, tự tin và quyết đoán nên ông làm xong đại nghiệp, xứng đáng là bậc quân vương, một anh hùng dân tộc. Hiểu được Lê Lợi như thế sẽ biết cái chết của Trần Nguyên Hãn và nhiều công thần trong giới trí thức là không tránh khỏi khi đất nước đã thanh bình, “giảo thỏ hết thì cung tên xếp xó”. Có lẽ vì vậy nên tác giả không dựng truyện xoay quanh nhân vật chính Trần Nguyên Hãn theo lối dựng truyện thông thường, khai thác sâu giai đoạn thơ ấu ở chùa Thiên Ân hay 12 năm đi bán dầu, vướng phải mối tình éo le với cô chủ Hồng… Giá được như thế, tiểu thuyết sẽ lung linh, hấp dẫn hơn chăng? Tác giả chỉ muốn tập trung lý giải nguyên nhân vụ án Trần Nguyên Hãn bằng việc viết lại “giáo trình” về một phân kỳ lịch sử thời Lê sơ. Do vậy tiểu thuyết có lúc hơi khô chăng?...
Tôi đặc biệt xúc động và đồng cảm với Vũ Ngọc Tiến khi anh dành nhiều trang trong tiểu thuyết mô tả khá cụ thể, chân thực về âm mưu phá nát nội bộ triều Lê, làm suy yếu nước Đại Việt bằng cả một mạng lưới gián điệp quy mô phủ khắp từ triều đình ra xã hội, từ miền xuôi lên miền ngược. Và tôi có cảm giác “Sóng hận sông Lô” đang dội đến Trường Sa. Tôi đọc và liên tưởng đến hình ảnh tác giả cùng các nhà văn Huệ Chi, Nguyên Ngọc, Phạm Xuân Nguyên hay cùng các nhân sĩ Chu Hảo, Nguyễn Quang A, Nguyễn Xuân Diện, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Đăng Quang, Nguyễn Văn Khải năm 2011 xuống đường phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo nước ta. Tôi chợt nhớ tới hình ảnh Vũ Ngọc Tiến một mình cô độc đi bụi giữa Tây Nguyên, lang thang đến từng buôn làng, mỏ quặng Bauxite để viết bài tâm huyết “Tây Nguyên du ký”, làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước. Anh thường tâm sự với bạn bè rằng, dân tộc Hán là một dân tộc ghê gớm lắm. Sức sống và sức đồng hóa của nó đạt tới mức ma quái. Lô gic thông thường: Người chiến thắng sẽ đồng hóa kẻ chiến bại. Hơn 200 năm phát triển của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, người da đỏ bản xứ ngày nay trở thành thiểu số yếu hèn, ăn nhờ ở đậu ngay trên mảnh đất thiêng của mình. Nhưng đối với dân tộc Hán thì khác đấy. Vào thế kỷ XIII, vó ngựa quân Mông Cổ tung hoành khắp lục địa Á- Âu, chiếm đất và nhanh chóng thống trị Trung Hoa, nhưng rồi chính họ lại bị người Hán đồng hóa thành triều đại nhà Nguyên. Có phải vì nỗi lo này không mà ta thấy trong “Sóng hận sông Lô”, tác giả dụng công mô tả rất nhiều thủ đoạn thâm hiểm của giặc Minh thời hậu chiến để cảnh báo cho hôm nay và mai sau? Đọc đến đâu, nghĩ tới vụ việc xảy ra hôm nay, tôi cứ giật mình thon thót:
“Ta sẽ xin với Tuyên Tông hoàng đế lập một vài phân đội thủy binh, cải trang thành hải tặc chuyên săn lùng thuyền của ngư dân và khách buôn nước Nam Man đáng ghét này mà cướp giết thật tàn bạo, khiến chúng khiếp vía không dám ra khơi. Ta tin chỉ trong vài năm, cả một vùng biển bao la, giàu có của Nam Man sẽ thành lãnh hải của Đại Minh.” (trang 109). Hôm nay, một vài phân đội thủy binh của Trịnh Hòa năm xưa đã biến thành hạm đội Nam Hải có đủ phi cơ, tàu ngầm, hàng không mẫu hạm… trang bị hiện đại đang làm mưa làm gió ở biển Đông đấy thôi! Chúng tôi đọc anh mà nhói lòng nghĩ tới thân phận các ngư dân ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) bị giặc Tàu xả súng giết hoặc bắt người, cướp thuyền và ngư cụ. Lại nữa: “Thoạt đầu hắn sẽ làm cỏ nước Nam Man cho bõ tức, sau đó lần lượt nuốt chửng hai nước Chiêm Thành, Chân Lạp. Đến lúc đó toàn bộ biển Đông sẽ thành biển Nam Trung Hoa”… “Ta sẽ dùng thủy binh của Trịnh Hòa chiếm nốt Xiêm La, rồi từ Xiêm La nuốt chửng luôn Ai Lao, Man Miến…” (trang 131). Khiếp quá! Đây chính là ý đồ bành trướng của bọn theo chủ nghĩa sô vanh Đại Hán thời nay rồi còn gì! Nó chỉ mới thè cái lưỡi bò ra đã chiếm tới 80% diện tích biển Đông.
Thế còn trên đất liền thì sao? “Chu Đại đang neo thuyền buôn ở bến sông làng Hiến, được cấp rất nhiều ngân lượng, lên bờ cắm chốt, lấy vợ bản địa, mua đất mở cửa hàng…” Đến hôm nay ông bạn láng giềng phương Bắc đã lập được bao nhiêu phố Tầu sau khi trúng thầu giá rẻ ở các công trình thế kỷ của nước Việt ta nhỉ? Chúng thuê được bao nhiêu héc ta rừng? Ngày xưa chúng chỉ cho người tràn sang thu mua vàng bạc, quế, hồi, sa nhân chứ bây giờ thu mua cả đỉa, lá điều khô, móng ngựa, chân trâu… thì thật đểu cáng, thâm hiểm gấp mấy các hoàng đế nhà Minh!... Rồi nữa: “Lang Mỵ, Hưng Khánh có mỏ sắt lớn ta đã cho đào bới, thăm dò”… “ Sát vùng biên giới có rất nhiều mỏ đồng, chì, vàng, bạc, thiếc…” (trang 194). Tôi chợt giật mình tự hỏi, ở đấy có mỏ bauxite không nhỉ? Giờ mỏ nào đã được liên doanh ngầm để móc khoáng sản thô chở lậu qua biên giới?  Lại nữa: “Mụ chủ lầu xanh Lệ Hoa cũng đã được cấp ngân lượng mua đất, mở vài cao lâu, tửu quán… tuyển thêm gái đẹp, thạo ngón nghề quyến rũ đàn ông…” hay “Nay ta đã mở rộng thành mạng lưới giăng kín xứ này gồm các thương nhân, đạo sĩ, thầy lang, thầy bói…” (trang 111). Tất cả đều là điệp viên cả đấy - toàn cỡ điệp viên 007, khiếp! Kinh khủng nhất là bàn tay phá hoại của giặc Minh thọc sâu vào tận cung đình, can dự vào công việc của Khu mật viện - một cơ quan có vai trò gần giống như Ban Tổ chức Cán bộ bây giờ. Bọn gián điệp đã gian manh tạo ra sự kiện lễ tế thần sông Cả, ở bến Triều Khẩu (ngày rằm tháng 6 năm Ất Tỵ - 1425) nhằm can thiệp sắp xếp nhân sự cao cấp nhất của triều đại nhà Lê sau này. (Loại bỏ bằng được nhóm trí thức tài năng Trãi- Hãn- Xảo- Chú- Tư Tề và ngầm ủng hộ nhóm vô học, tham lam, ngu ngốc Sát- Ngân- Vấn- Hoành- Nguyên Long.)  Tổng lực đến thế! Táo tợn và nham hiểm đến thế! “Sóng hận sông Lô” năm xưa đã dội đến Trường Sa hôm nay…
“Sóng hận sông Lô” là cuốn sách có hồn. Cái hồn đó nhắc bảo chúng ta: Không có một dân tộc nào trên trái đất này được phép tự coi mình là siêu đẳng, là duy nhất, còn xung quanh chỉ là Man- Di- Mọi- Rợ. Tất cả các dân tộc sinh ra đều bình đẳng. Chỉ một phút lãng quên điều đó, Hít-le và dân tộc Giéc- manh đã phải nhận hậu quả bi thảm. Cái hồn đó nhắc bảo chúng ta: Sức sống, sức đồng hóa của dân tộc Hán thật ma quái, nhưng sức chống đồng hóa của dân tộc Việt cũng thật phi phàm. Trải qua 1000 năm Bắc thuộc mà người Việt vẫn mãi là người Việt. Nó trở thành liều vắc-xin phòng chống Hán hóa hiệu quả mà không thế lực nào có thể phủ nhận hoặc hèn hạ từ bỏ. Có phải thế chăng mà khi đọc xong cuốn “Sóng hận sông Lô”, tận thẳm sâu trong tôi bỗng ngân lên những câu thơ hào sảng của đại thi hào Nguyễn Trãi:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc- Nam cũng khác…”

Hà Nội 4/8/2013


     
ĐỌC SÓNG HẬN SÔNG LÔ”- ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN
Nhà văn Nhật Tuấn- Tp HCMN



Nơi tôi đang ở không có điều kiện viết tham luận, tôi chỉ xin nêu một vài ý ‎ kiến ngắn sau khi đọc “Sóng Hận sông Lô”. Thú thực tôi hơi lo khi anh cho biết viết thử nghiệm theo bút pháp của W. Faulkner . Riêng tôi, vẫn cho rằng bút pháp là “diện mạo” của  tâm hồn nhà văn , tôi cũng đã vài lần thất bại, dại dột học theo lối “Tây Thi nhăn mặt” lúc đau bụng.
 Tuy nhiên đọc xong tôi thấy anh sử dụng được kỹ thuật “ trục thời gian và không gian quay đảo bởi các mảng hồi ức về số phận nhân vật” hợp với nhu cầu dựng truyện. Vì “lượng thông tin” quá đậm dặc, “chuyện nọ đẻ chuyện kia” không thể đọc nhanh đành chịu cảnh “vịt nhồi” , cảm giác như anh đang cầm cái bình khổng lồ đầy ắp các sự kiện, các câu chuyện đổ ào ào vào dòng chảy lịch sử lạnh lùng cuốn đi số phận của cả trăm nhân vật.
Bữa tiệc của anh dọn ra không nhiều món nhưng lại đậm dặc protide khiến những kẻ yếu dạ đành bỏ, tìm tới Khái Hưng với “Tiếu Sơn tráng Sĩ” , Lâm Ngữ Đường  với “Tình sử Võ Tắc Thiên”…cũng tiểu thuyết lịch sử nhưng “ẩm thực” ngây ngất và dư vị của nó còn lại mãi trong ta.
Tuy nhiên, nói vậy không phải phủ nhận giá trị tiểu thuyết của anh, quả thực phải dụng công lắm, trong có hơn 300 trang sách anh đã tái hiện bức tranh khổ lớn một thời kỳ lịch sử bi hùng của dân tộc. Nhưng tiếu thuyết dẫu có là “tiểu thuyết tân cổ điển” hay “Tiểu thuyết giáo trình” chăng nữa, tiểu thuyết vẫn là con quái vật nuốt mọi thứ trên đường đi của nó làm vật liệu cho cái công việc bản thể của nó - ấy là “truyện tưởng” ( fiction). Cả một núi sự kiện giá như được nhào nặn bằng năng lượng của tưởng tượng !
Hồi mới vào Sàigòn 1975 tôi rất ngac nhiên  hỏi một cô gái Sàigòn :” Sao em mê coi hát bội thế ?”. Cô gái trả lời :” Là vì trong đó có trung hiếu tiết nghĩa là thứ bây giờ không còn nữa…”.
Vậy phải chăng những thứ cô gái cần tìm là đặc trưng của con người thời quân thần phụ tử phu phụ.? Ở một xã hội loạn chuẩn, vật chất được đề cao tót vời, cái đẹp dường như đã chết, người ta càng khao khát cái cao thượng, cái nghĩa hiệp, sự hy sinh vì người khác.  Những môtíp đó thiếu vắng trong “ Sóng hận sông Lô” ngoài nàng Mai Lan ở cuối truyện, trước khi gieo mình xuống sông còn nói với hồn Trần Nguyên Hãn :” Vắng ông thiếp sống còn có nghĩa gì ! Rồi đây nhang khói cho ông đành nhờ cậy chị cả …thiếp đi theo hầu hạ ông đây…” Đó là điểm son hiếm hoi trong tiểu thuyết dầy đặc những con người như những con rối của lịch sử, quay cuồng trong âm mưu và thủ đoạn ở cả hai phía ngoại xâm và chống ngoại xâm.  Tiếc thay những “điểm son” đó lại làm nên tiểu thuyết.
Thú thực, tôi không tin Bắc Bình Vương và đám cận thần lại mông muội đến mức hy sinh cả vợ yêu, con gái của mình đẩy xuống sống cúng cho hà bá. Đầu óc ngu xuẩn, tâm địa độc ác thế làm sao đánh thắng  ngoại xâm, làm sao trị quốc ? Trong các nhân vật triều đình -  bằng sự nghi kỵ  đến bệnh hoạn, bằng sự gian manh trong thủ đoạn, bằng bằng sự vô ơn bạc nghĩa với những cận thần giúp mình từ thủa khởi nghiệp, tôi cho rằng xấu xa nhất vẫn là vua Lê Lợi. Liệu đó có phải là sự thực lịch sử ?
Đối ảnh với Lê Lợi, có lẽ là Trần Nguyễn Hãn, người anh hùng trong chiến trận và cả trong đấu tranh chống lại cái ác trong thời bình. Có thể do giới hạn lịch sử, Trần Nguyên Hãn không dám chống lại vua nhưng như vậy không có nghĩa trong tâm tư tuyệt nhiên không có lấy một sợi phản kháng ? Tiểu thuyết sẽ “tiểu thuyết” lên rất nhiều nếu tác giả “tưởng tượng” được sự giằng co quyết liệt giữa cái “ngu trung”…” thần thà đem cái chết để tỏ dạ trung thành với triều đình. Thần đi đây. Hoàng thượng hãy ngồi vứng trên ngai vàng “ với cái tính “bản thiện ” hẳn phải có trong con người Trần Nguyễn Hãn.
Chương “Sóng hận sông Lô” theo tôi là chương hay nhất. Chỉ bằng những chấm phá, tác giả đã dựng lên cả một bức tranh bàn tay lông lá của Hán tặc thò vào cơ thể đất nước ta :
“ người nước Minh cậy thế Bùi Đức Lộc bao che đã cưỡng hiếp con gái nhà lành …nhà cửa ruộng nương của người man tộc bản địa xơ xác, tan hoang. Rừng cây bị chặt phá ngổn ngang. Mặt đất lở lói những hố đào quặng nham nhở khắp nơi. Mấy con suối đục ngầu  nhiễm độc vì đãi quặng…”
““Nay ta đã mở rộng thành mạng lưới giăng kín xứ này gồm các thương nhân, đạo sĩ, thầy lang, thầy bói…”
Người đọc phải giật mình, cái bức tranh vân cẩu này đâu phải chỉ có ở thời nhà Lê ! Giặc ngoại xâm đã lấp ló ngoài biên cương là cái thông điệp ai cũng thấy cho thời bây giờ. Nhưng ai sẽ là Trần Nguyên Hãn đứng về phía “man tộc bản địa” chống lại bọn  cường hào ác bá, tay sai cho ngoại bang ? Tác giả không lộ hé một lời giải đấp.
Đọc tới cuối sách, tôi cảm giác như mới chạy marathon qua một chặng đường dài. Giá như tác giả cho người đọc những “chiếu nghỉ” giữa những trang viết. Vĩ đại như vạn lý trường thành vẫn còn có những chặng thành bằng  khi “ngựa nản chân bon”. Nhưng cái chiếu nghỉ ấy như thế nào chỉ có người viết hình dung.
Bỏ qua những kỳ vọng nêu trên, “ Sóng hận sông Lô” chắc chắn vẫn được xếp hạng trong kho tiểu thuyết lịch sử Việt Nam. Xin chúc mừng nhà văn Vũ Ngọc Tiến

                                                                                                   Tp HCM ngày  8-8-2013
                                                                                                              Nhật Tuấn