Trang chủ » Tin văn và...

CÁI CHẾT BI TRÁNG CỦA KẺ SỸ THĂNG LONG VÀ VẾ ĐỐI ĐẬP VÀO MẶT LŨ NGẠO MẠN, MAN RỢ VÀ TÀN ÁC: ĐẰNG GIANG TỰ CỔ HUYẾT DO HỒNG!

Wikipedia
Thứ ba ngày 2 tháng 6 năm 2009 1:42 PM
Xem
Cách đây đúng 370 năm, ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639), triều đình Bắc phương (Minh Tư Tông tức Sùng Trinh) đã giết Thám hoa Giang Văn Minh - chánh sứ Đại Việt, một cách hèn hạ, man rợ chưa từng thấy trong lịch sử bang giao thế giới, chỉ vì run sợ trước vế đối hùng tráng của Người: Đằng giang tự cổ huyết do hồng – Nước sông Bạch Đằng máu đã đỏ từ xưa!
Xin gửi đến quý bạn đọc trannhuong.com, tư liệu sau đây,  như một nén nhang của kẻ hậu sinh, thắp trước anh linh cao cả, linh thiêng  của một KẺ SỸ THĂNG LONG BẤT KHUẤT – MỘT NGƯỜI CON ĐẤT VIỆT ANH HÙNG THIÊN CỔ, VĂN VÕ SONG TOÀN, KHÍ PHÁCH HIÊN NGANG, KHÔNG CHO PHÉP BẤT CỨ KẺ NÀO LÀM NHỤC DÂN TỘC MÌNH!
Nguyễn Khắc Phục
 
Theo sử sách, Giang Văn Minh sinh năm 1573, tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, nay thuộc xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội. Ông từng đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi thi Đình lại đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn, năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông. Khoa thi này không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn, vì vậy ông là người đỗ cao nhất trong cả khoa thi. Sau khi đỗ đạt, ông lần lượt được bổ nhiệm vào các chức vụ như Binh khoa đô cấp sự trung (1630), Thái bộc tự khanh (1631).
Ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với 4 phó sứ là: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh. Sau khi chết, ông được truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công.
Vào thời điểm ông đi sứ, mặc dù nhà Mạc đã bỏ chạy ra Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt (với cả nhà Hậu Lê và nhà Mạc) với mục đích để cuộc chiến tranh Lê-Mạc kéo dài. Đoàn sứ bộ của Giang Văn Minh đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) vào năm 1638.
Đến khi triều kiến, Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (tức hoàng đế Sùng Trinh) lấy lý do “Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ” để ngăn trở việc công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê và bãi bỏ công nhận ngoại giao với nhà Mạc.
Đồng thời, Chu Do Kiểm còn ngạo mạn ra cho sứ bộ một vế đối như sau:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
Nghĩa là:
Cột đồng đến nay rêu đã xanh
Câu này có hàm ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong).
Trước sự ngạo mạn đó, Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu:
Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
Nghĩa là:
Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ
Vế đối này vừa chỉnh, vừa có ý nhắc lại việc người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng ( Ngô Vương Quyền đại phá quân Nam Hán năm 938, Lê Hoàn đánh tan xâm lược Tống  năm 981 và Trần Hưng Đạo diệt quân Nguyên Mông năm 1284).
Vào thời bấy giờ, câu đối này được xem là cái tát thẳng vào mặt hoàng đế nhà Minh trước đông đảo văn võ bá quan của Thiên triều và sứ bộ các nước. Vua nhà Minh bừng bừng lửa giận quên mất thể diện thiên triều, bất chấp luật lệ bang giao, đã trả thù bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Nhưng Minh Tư Tông vẫn kính trọng ông còn cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân và đưa thi hài ông về nước.
Khi thi hài của ông về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu ông] và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công, ban atặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ).
Sau khi thi hài được đưa về nước, Giang Văn Minh được chôn cất tại Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm. Trên cánh đồng này có một quán (hiện có dạng ngôi nhà) nhỏ là nơi linh cữu ông đã được quàn và gọi là quán Giang.
Hiện nay, nhà thờ ông ở làng Mông Phụ đã được nhà nước Việt Nam xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa. Ở Hà Nội hiện nay có một con đường mang tên Giang Văn Minh, nối với phố Giảng Võ và phố Kim Mã, quận Ba Đình.

Nguồn Wikipedia