Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

XIN THỀ ỦNG HỘ "HỘI THỀ" !

Đỗ Ngọc Yên
Thứ ba ngày 29 tháng 3 năm 2011 6:29 PM
 
Phiêu:
Tiểu thuyết, truyện ngắn, trường ca,... viết về hoặc có liên quan đến các sự kiện, nhân vật hay giai đoạn lịch sử nào đấy đã từng để lại nhiều tác phẩm khó quên ở cả văn chương Việt và văn chương thế giới từ hàng thế kỷ nay. Tuy nhiên, sau mỗi cuốn sách viết về đề tài ấy, thường nổ ra cuộc tranh luận sôi nổi, gay gắt, nhất là các tác phẩm đoạt giải thưởng. Người khen nhiều và người chê cũng không ít. Nhưng xem ra đấy cũng chỉ là chuyện chủ yếu là của người ngoài cuộc. Còn nhà văn cứ thai nghén đủ tháng đủ ngày để đứa con tinh thần ấy nhất định sẽ phải chào đời. Nó như thế nào cũng là con tôi, còn việc bàn thảo lại là chuyện của người khác.
\
Xênh I:

Lịch sử và văn chương là cặp song sinh?
I.1/ Trước hết, tôi tạm gác về một bên động cơ, mục đích cùng với giá trị thực của những lời khen/hê trên các tờ báo in chuyên về văn chương cũng như trên các tờ báo mạng và các trang blog cá nhân. Điều tôi quan tâm trước hết là liệu nhưng sự khen/chê ấy có đem đến cho người được/bị khen/chê và những người khác có liên quan đến việc chấm và trao giải cho các tác phẩm và cuối cùng, trên hết là công chúng sẽ được “hưởng lợi” gì trong các những cuộc bút chiến. Bất luận như thế nào về sự khen/chê cũng đều đem đến cho đời sống văn chương nước nhà một không khí dân chủ, một sự cởi mở nhất định, khiến tất cả mọi người từ tác giả, nhà phê bình và công chúng cần nhìn lại mình xem những điều mình viết và nói ra đến đâu hay chỉ để cho vui.
Tôi có một lòng tin sắt đá rằng, đại bộ phận những người tham gia tranh luận về một tác phẩm văn chương nào đấy, lúc nổi máu lên thì viết vậy, đến khi gặp nhau lại có thể  ngồi bên ly rượu cuốc lủi nút lá chuối đến thâu đêm suốt sáng để đàm đạo văn chương cho mà xem. Lạ gì máu văn chương của nhà bác nữa cơ chứ. Vậy nên, điệu Then của người Tày, Nùng, Thái,... có câu nghe rất sướng lỗ tai: Bác Văn ơi! Em còn lạ gì bác nữa... cơ chứ! Mới khi trưa hai bác vừa cãi nhau... chứ gì! Bây giờ hai bác lại cụng ly rất vui... ớ ơ! Tất nhiên là cũng có một số người nào đấy mượn hay nhân danh, mạo danh văn chương và học thuật để nhắm đến mục đích ngoài văn chương, khiến không ít độc giả loá mắt, ù tai vì những cuộc tranh cãi đó.
Tuy nhiên, đối với những người chân chính, thật sự cầu thị về nhận thức hay nhu cầu thưởng lãm văn chương thì trước khi cầm bút, người ta thường bình tĩnh, ý thức một cách rõ ràng rằng mọi sự khen/chê đều có “độ” (ngưỡng) của nó. Nếu vượt quá độ/ngưỡng ấy, thì sự khen/chê sẽ chuyển sang một dạng khác, mà dân ta thường gọi là “cãi vã” kiểu chợ giời, chỉ tổ làm xấu hổ mặt văn nhân, loạn chuẩn thị hiếu thẩm mỹ của công chúng và gây hậu quả khôn lường. Trong cuộc bút chiến tựa hồ như bất phân thắng bại ấy dường như không thiếu những người muốn nổi máu “iêng hùng”, ít để tâm đến việc tìm ra hướng tiếp cận mới, thích hợp với tâm thế thời đại, mặt bằng văn chương, cũng như một thái độ cầu thị cần thiết ngõ hầu đem lại cho đời sống văn chương Việt một sinh khí mới. Theo tôi, mọi thái độ tâng bốc quá đà lên tận mây xanh hay vùi dập xuống tận bùn đen của bất kỳ một ai về một tác phẩm nào đó đều không có ích gì cho sự phát triển văn chương nước nhà, mà chỉ tốn hơi đoản sức mà thôi.
Ai cũng biết, những sự kiện và nhân vật lịch sử đã từng tồn tại cách đây hàng trăm năm không bao giờ có thể lại trùng khớp với cái bóng của nó trong một cuốn sách mới ra đời cách đây vài năm. Do vậy, độc giả văn chương không thể làm cái việc của người giám sát công trình xây dựng theo kiểu xem hiện tại người thợ thi công có làm đúng bản vẽ của nhà thiết kế hay không. Tức là người đọc không thể đem những sự kiện, nhân vật lịch sử đã từng tồn tại cách đây hàng trăm năm ra để áp vào những sự kiện, nhân vật trong tác phẩm văn chương.
I.2/ Mặt khác, ngay cả những sự kiện, nhân vật lịch sử theo nhận thức chủ quan của mỗi người hôm nay chưa hẳn/không thể hoàn toàn trùng khớp 100% với những gì được ghi lại trong các biên niên sử.
Hơn nữa, xét cho cùng, sự thật lịch sử trong các biên niên sử cũng chỉ là sự phản ánh (ghi chép lại) những gì đang và đã từng xảy ra trước đó của các sử gia đương thời và hậu thế, tức là nó đã được phản ánh thông qua lăng kính nhận thức chủ quan của các nhà làm sử.
Lại ngặt vì, các nhà chép sử không phải tất thảy cùng một trình độ học vấn, kinh nghiệm sống, thái độ chính trị và bút lực cũng như sống cùng một thời đại lịch sử như nhau, nên cùng một sự kiện, nhân vật lịch sử có thể có hai hoặc nhiều hơn cách phản ánh khác nhau bởi các nhà ghi chép và nghiên cứu lịch sử khác nhau.
Hiềm một nỗi, không hề có bất kỳ một sự kiện, nhân vật lịch sử nào được chép lại mà không chịu áp lực từ các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, đạo đức,...tức là môi trường sống hiện hữu mà nhà ghi chép và nghiên cứu lịch sử đang sống trong ấy để làm công việc của mình. Một ví dụ rất sinh động và điển hình là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay tại thời điểm đó, do những điều kiện khách quan đã không phản ánh đúng sự thật tức là ghi ngày 3/9/1969. Nhưng sau này, khi đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng mới cho đính chính lại ngày mất của Người chính xác là 2/9/1969.
Những sự kiện và nhân vật lịch sử mà ngày nay chúng ta biết được về nhà Hậu Lê mà tác phẩm “Hội thề” đã mô tả về/có liên quan đến cũng được dịch từ nguyên bản chữ Hán/Nôm ra tiếng Việt hiện đại, nên thật khó có thể nói rằng mọi bản dịch đều chính xác tuyệt đối so với nguyên tác. Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du cũng là một minh chứng sinh động về mức độ chuẩn xác giữa nguyên tác và các bản sao chép của hậu thế. Chắc gì bản tiếng Việt mà chúng ta đang có trong tay hiện nay đã hoàn toàn xác thực so với nguyên tác Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du đã viết cách đây hơn 140 năm về trước. Bởi lẽ, cách đây chưa lâu, người ta lại tìm thấy những dị bản truyện Kiều khác ở tận bảo tàng Louvre của Pháp tại Paris. Ấy là chưa kể đến các văn bản truyện Kiều được nhiều người khác nhau dịch ra các thứ tiếng Nga, Anh, Pháp,...thì khả năng sai lệch của nó là khó tránh khỏi. 
Như vậy, có thể thấy, dù có chân thực đến mấy thì nhận thức lịch sử cũng chỉ mang tính chất tương đối, vì các sự kiện lịch sử như nó vốn có, là những cái “đã từng tồn tại” trong lịch sử chứ không phải những cái “đang tồn tại” hôm nay. Cái mà người đương thời có đã không ít hơn một lần bị “tam sao, thất bản”. Nếu mỗi người cầm trong tay một văn bản về một sự kiện, nhân vật lịch sử nào đấy rồi đem ra đối chiếu, tranh biện, chắc chắn ai cũng sẽ nói là văn bản của mình là đúng, còn văn bản của người là sai. Vậy văn bản nào đúng/sai sẽ là một câu chuyện chẳng bao giờ có hồi kết. Âu đấy cũng là lý do chính đáng làm nên sự tồn tại của khoa nghiên cứu lịch sử và ngành văn bản học. Tóm lại, lịch sử và văn chương không bao giờ là một cặp song sinh cả.
Đọc hàng chục bài với hàng trăm trang viết trên các trang báo in, báo mạng và blog cá nhân về “Hội thề” cuốn sách viết về/có liên quan đến thời kỳ lịch sử là Hậu Lê. Nhưng theo tôi, có lẽ vì “Hội thề” đoạt giải nhất cuộc thi tiểu thuyết 2006- 2010 nên mới nổ ra cuộc tranh luận này. Đây không biết thực sự có phải là dấu hiệu đáng mừng cho văn chương nước nhà (!?).

Xênh II: Phái “phàm là” I
II.1. Đấy là những bài viết của những người khẳng định, ca ngợi, hoặc chí ít là bình giá cái hay cái đẹp của các tác phẩm “Hội thề”. Mỗi người, ai cũng có quyền đưa ra cách đọc văn bản tác phẩm theo cảm nhận và cách hiểu chủ quan của riêng mình về tác phẩm. Tuy nhiên, đã là nhận thức chủ quan, dù có cố gắng đến đâu, cùng lắm người đọc cũng chỉ có thể tiệm cận (chạm vào) được một phần rất nhỏ chân lý khách quan, tuỳ theo trình độ và năng lực thẩm văn của mỗi người. Tức là người đọc không bao giờ có thể đọc hết được các tầng ngữ nghĩa chưa trong văn bản tác phẩm do nhà văn viết ra. Vậy nên, chuyện người đọc không hiểu nhà văn, mỗi người đọc hiểu theo một cách cũng là lẽ đương nhiên. Tức là mọi người đều có thể khen chưa/không đúng, khen chưa đến độ một tác phẩm nào đấy do trình độ, năng lực thẩm văn và cũng không ngoại trừ các mối quan hệ ngoài văn chương xen vào khi người ta đọc tác phẩm rồi cầm bút viết những lời khen/chê không giống
nhau, thậm chí là trái chiều là chuyện hết sức bình thường.
Những người theo phái này cho rằng đã là tác phẩm nghệ thuật do nhà văn sáng tạo ra hoàn toàn có quyền hư cấu, dù tác phẩm đó viết về/có liên quan đến một sự kiện, nhân vật nào đấy đã từng tồn tại trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, miễn sao những điều nhà văn viết ra gây được xúc động lòng người, để lại sự ám ảnh khôn nguôi trong tâm trí người đọc, khiến họ cần phải nhìn nhận lại lịch sử ở một chiều kích khác, cao hơn, sâu hơn và cũng nhân bản hơn, những cái tưởng chừng như đã được các sử gia giải quyết xong xuôi, nhưng lại không bao giờ có thể xong đối với nhà văn. Đấy là lý do chính yếu để ra đời và tồn tại một số loại hình nghệ thuật như tiểu thuyết lịch sử, sân khấu lịch sử, điện ảnh lịch sử,...
Đến với tác phẩm văn chương là để thoả mãn cái hay, cái đẹp thông qua hệ thống ngôn ngữ, cấu trúc tác phẩm, hình tượng, giọng điệu,... theo đặc trưng thể loại mà nhà văn đã ký thác vào đấy những điều mình tâm đắc nhất, chứ không phải người đọc phải mang theo một cái khuôn có sẵn đầy định kiến cá nhân để soi xét xem những cái mà nhà văn viết trong tác phẩm có đúng với những gì hết sức hữu hạn và có thể còn bị sai lệch mà một số người vẫn quen gọi là “sự thật lịch sử”. Chính vì thế, điều này có thể khiến những người quen đọc tác phẩm văn chương bằng con mắt của người chép sử hoặc của người làm luật thường cảm thấy phật lòng, khó chịu và không ngại qui kết cho mấy ông nhà văn cố tình hiểu sai, viết sai hay “xuyên tạc” lịch sử. Tệ hại hơn là có những người dù đã biết mười mươi nhưng vẫn cố tình văn vẹo, suy diễn hoặc chụp mũ vô lối cốt để tạo nên một vụ scandal ảo, nhằm vào những chuyện ngoài văn chương, làm rối loạn thị hiếu thẩm mỹ của công chúng.
II.2. Đã nói đến sự tưởng tượng chủ quan của nghệ sỹ cũng có nghĩa là thừa nhận tính không đồng nhất giữa những sự kiện lịch sử đã từng tồn tại trong đời sống thực với những cái được phản ánh vào trong tác phẩm VHNT. Người nghệ sỹ có thể bớt đi hay thêm vào, nhấn mạnh hay làm lu mờ đi một số chi tiết, sự kiện, nhân vật nào đấy phục vụ cho ý đồ sáng tạo riêng, cốt biện giải cho những ý tưởng nghệ thuật của mình là điều hoàn toàn không có gì sai. Một sự kiện hay một nhân vật nào đó được thêm vào không nhất thiết là có thật, ngược lại nó có thể hoàn toàn được tạo nên bởi sự tưởng tượng chủ quan của nghệ sĩ, cốt sao “cái lịch sử” trong tác phẩm văn chương cần phải mang tính khái quát cao hơn so với “cái lịch sử” đã từng xảy ra và tồn tại trong quá khứ; đồng thời phải mang được hồn cốt, toát lên được tinh thần, không khí của giai đoạn lịch sử mà nhà văn đề cập tới. Điều ấy không hoàn toàn xác tín, hoặc cũng có khi là một “góc khuất” nào đấy của lịch sử mà các sử gia đương thời và hậu thế chưa đề cập tới hoặc không thể nào tưởng tượng ra và vì những lý do khách quan mà họ không thể ghi chép lại được. Hơn thế, việc bớt đi hay thêm vào các chi tiết, sự kiện, nhân vật nào đó nhằm mục đích tái hiện lại lịch sử ở một cấp độ cao hơn, sâu sắc hơn và cũng ám ảnh hơn qua trí tưởng tượng của người nghệ sĩ mới là việc cần và nên làm của văn chương. Các sự kiện, nhân vật lịch sử trong tác phẩm VHNT bao giờ cũng mang tính khái quát cao hơn bản thân những sự kiện, nhân vật đã từng tồn tại trong lịch sử. Tiếc rằng,  không ít người vẫn tưởng rằng chỉ có những cái mình biết, thông qua những trải nghiệm cá nhân hay từ sự đọc những cuốn biên niên sử mới là cái thật nhất.
II.3. Đại văn hào Liev Toltoi, người đã sáng tạo ra bộ tiểu thuyết bất hủ “Chiến tranh và Hoà bình” viết về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Nga dưới sự chỉ huy của nguyên soái Kutuzov chiến đấu chống lại sự xâm lăng của quân viễn chinh Pháp do Napoléon cầm đầu, có bao nhiêu phần trăm sự thật và bao nhiêu phần trăm hư cấu, đến nay vẫn chưa ai dám khẳng định một cách chắc chắn được. Cũng tương tự như vậy, trên văn đàn thế giới có biết bao tác phẩm căn chương viết về/có liên quan đến các sự kiện lịch sử như: “Don Quijote” của Miguel de Cervantes và “Les Trois Mousquetaires” (Ba người lính ngự lâm) của Alexandre Dumas là những tiểu thuyết lịch sử được hư cấu hoàn toàn,… nhưng chẳng mấy ai quan tâm đến sự đúng sai của những sự kiện lịch sử đã được nhà nghệ sĩ tái hiện trong tác phẩm so với nguyên mẫu lịch sử. Dù rằng cái gọi là “nguyên mẫu lịch sử” đó, cả những người đương thời lẫn hậu thế không ai dám chắc đấy là sự thật 100%.
Mặt khác, người nghệ sĩ phản ánh lịch sử chủ yếu là bằng các cung bậc của cảm xúc và tình cảm cá nhân, chứ không dừng lại ở ranh giới đúng và sai của nguyên mẫu lịch sử như các nhà biên niên sử thường làm. Tính không đồng nhất giữa sự thật đã từng tồn tại như nó vốn có trong đời sống thực và những sự kiện được phản ánh trong tác phẩm VHNT chính là hư cấu nghệ thuật, một đặc tính của sáng tạo VHNT.
Cũng không phải đến gần đây các tác phẩm văn chương Việt mới viết về/có liên quan đến các sự kiện lịch sử, mà trước đấy có “Lều chõng” của Ngô Tất hay “Bóng nước Hồ Gươm” của Chu Thiên đã từng viết về/ có liên quan đến Lê Lợi, “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” của Nguyễn Đình Thi viết về/có liên quan đến Nguyễn Trãi, rồi “Sông Côn mùa lũ” của Nguyễn Mộng Giác,...Với các tác phẩm trên, không thấy ghi lại những cuộc tranh luận về vấn đề lịch sử đã được đặt ra và phản ánh trong tác phẩm VHNT. Riêng đối với “Phẩm tiết” của Nguyễn Huy Thiệp ra đời cách đây hơn 20 năm đã viết về/có liên quan đến vị vua triều Nguyễn là Quang Trung Nguyễn Huệ,...cũng đã từng xảy ra cuộc tranh luận khá sôi nổi. Đấy là chuyện của hơn hai mươi năm về trước khi chúng ta mới bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới đất nước.
II.4. Gần đây, đầu những năm 2000, Nguyễn Xuân Khánh đã tái hiện hình tượng Hồ Quý Ly trong tác phẩm cùng tên của ông. Trong “Hồ Quý Ly” nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã hư cấu nên hình tượng quận chúa Quỳnh Hoa, người vợ quá cố của Hồ Nguyên Trừng, con trai của Hồ Quý Ly, nhằm bộc lộ và nhấn mạnh thêm tính cách Hồ Nguyên Trừng, một con người đầy lòng trắc ẩn nên dễ dàng tha thứ cho người khác. Nhưng cơ bản toàn bộ giai đoạn lịch sử thời cuối Trần đầu Hồ không vì thế bị bóp méo hay xuyên tạc. Cũng tương tự như thế đoạn miêu tả Hồ Quý Ly đứng lặng im phía sau để chờ vợ cầu kinh bên bàn thờ Phật mà Nguyễn Xuân Khánh đã hư cấu, lại hoàn toàn có thể chấp nhận được, mặc dù trong các tài liệu lịch sử còn lưu trữ được về Hồ Quý Ly không có chi tiết đó. Nhờ vào những chi tiết đó mà bạn đọc hôm nay có thêm điều kiện để hiểu rõ một nét tính cách của ông vua nhà Hồ. Đó chính là ở chỗ sâu thẳm còn có một ông vua Hồ Quý Ly khác, cô đơn và hướng thiện. Cũng vì thế qua tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” của Nguyễn Xuân Khánh, người đọc lại có thêm cơ hội để nhận thức sâu hơn sự thật lịch sử thời bấy giờ. Giai đoạn lịch sử đó đã nảy sinh ra những người táo bạo, cách tân, mưu lược, đầy tham vọng và cô đơn như Hồ Quý Ly; anh hùng, dũng mãnh, có tài binh lược như hai vị tướng Trần Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh; lũ người bất tài vô dụng, nhưng trung thành với một triều đại đã mục nát như Trần Nguyên Hàng, Nguyên Dận, Nguyên Uyên; và còn có cả quận chúa Quỳnh Hoa, cô gái Thanh Mai... những người phụ nữ rất mực thuỷ chung, hết lòng thương yêu chồng và cũng sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn. “Hồ Quí Ly” đã được giải tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001, nhưng khi ấy chẳng thấy ai phê phán về sự sai lệch giữa các sự kiện lịch sử đã từng diễn ra cách đây gần 600 năm và những sự kiện được mô tả trong “Hồ Quí Ly”. Có chăng chỉ có những nhận định, đánh giá nghiêng về phía “bái phục” cái tài của lão nhà văn Nguyễn Xuân Khánh mà thôi. 

Xênh III: Phái “phàm là” II
Những người có chung quan điểm cho rằng đã là tiểu thuyết lịch sử, thì nhất thiết phải tôn trọng sự thật lịch sử đến mức có thể. Những trang viết càng gần/giống với sự thật lịch sử theo những gì mà họ biết qua trải nghiệm cá nhân, qua sách báo bao nhiêu, càng đạt tiêu chỉ về “tính chân thực lịch sử” bấy nhiêu. Ngược lại nếu nhà văn cố ý hư cấu, thêm bớt hoặc mô tả sai lệch những sự kiện, nhân vật lịch sử, thì tất nhiên tác phẩm ấy không thuộc thể loại “truyện lịch sử” theo chủ quan của họ và tất nhiên là không thể được đánh giá cao. Tuy nhiên những người theo phái này có những cái lý riêng của mình.
 
III.1. Một mặt, họ vừa ủng hộ tiêu chí hư cấu trong tác phẩm nghệ thuật văn chương, nhưng chỉ được “hư cấu” theo quan điểm và cách hiểu của những người đã từng nghĩ rằng truyện lịch sử chỉ có thể hư cấu được những phần gọi là “râu ria”, còn những sự kiện, nhân vật chính yếu là phải y trang với những gì đã được các sử gia ghi chép trong các sách về lịch sử. Nhưng mặt khác họ lại không thể chấp nhận tiểu thuyết (truyện ngắn) lịch sử được phép hư cấu như khi xây dựng một tác phẩm nghệ thuật. Nói cách khác, nhà văn không được phép “hiện đại hoá” và “nghệ thuật hoá” lịch sử, mà lịch sử là lịch sử.
Những người theo phái này có lý khi cho rằng, tác giả “Hội thề” đã không chọn đúng thời điểm lịch sử cần thiết khi xây dựng tác phẩm. Họ cho rằng, độc giả rất khó chấp nhận khi nghĩa quân Lam Sơn tổ chức Hội thề ở Đông Quan bàn kế hoạch bình định quân Minh mà nội bộ đã quá bê bết như vậy. Nếu thế, chắc không thể nào chiến thắng được một đội quân hùng hậu và tàn bạo như quân Minh.
Tuy nhiên, trên thực tế là ngay sau khi nhà Lê chiến thắng quân Minh, đuổi chúng ra khỏi bờ cõi nước ta mà vẫn “cho ngựa, cấp lương” để chúng về nước thì xem ra sự đố kỵ giữa kẻ sĩ Bắc Hà với lũ võ biền xứ Thanh đã từng nổ ra là một sự “hư cấu” thiếu tính chân thực lịch sử, phi logic khách quan, đầy tính áp đặt chủ quan và hết sức vô lý. Thậm chí có không ít người, gồm nhà văn, nhà lý luận, phê bình văn học, nhà sử học,...còn cho rằng cách lý giải lịch sử của “Hội thề” như vậy thực chất là vọng ngoại, rằng những kẻ sĩ Bắc Hà không thể nào tìm được những người tri âm, tri kỷ trong đám tướng lĩnh vô học xứ Thanh trong nghĩa quân Lam Sơn, nên Nguyễn Trãi mới phải tìm đến những vị tướng bại trận như Vương Thông, Thôi Tụ, Thái Phúc. Theo lập luận của những người theo phái này thì Nguyễn Quang Thân đã “thi vị hoá” đến mức quá si mê những tên tướng giặc bại trận này, biến họ trở thành cứu cánh cho việc khai hoá tri thức và văn hoá đến từ nước Tàu đối với những bậc hiền tài như Nguyễn Trãi thì thật là ô nhục hết chỗ nói.
Thứ nữa, lúc ấy mới kết thúc chiến tranh trên danh nghĩa, còn trên thực tế, cần phải có một thời gian nữa mới có hoà bình thực thụ. Thời điểm ấy, chính là lúc tướng sĩ, quân dân đang chuẩn bị hướng đến niềm vui chiến thắng, chứ chưa kịp làm bất cứ điều gì trong việc cải tổ triều chính, làm gì đã có mâu thuẫn, hiềm khích, tranh giành lẫn nhau giữa kẻ sĩ Bắc Hà với nông dân Thanh Hoá. Nếu có cũng phải sau đấy một thời gian nữa, chí ít cũng phải là sau khi Lê Thái tổ mất. Cần nói thêm rằng, đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm chính trị về quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ xưa đến nay. Có lẽ hoặc vì thiếu nhạy cảm hoặc thích phiêu lưu làm kẻ “đốt đền” theo kiểu năm ăn năm thua của nghệ sĩ.
Nhưng bất luận vì lý do gì, “Hội thề” cũng đã để lộ những khiếm khuyết không đáng có. Nắm được điểm yếu ấy của tác phẩm, một số người đã không ngần ngại đẩy xa vấn đề, thổi phồng lên nhằm nockout tác giả và những người có liên quan. Họ cho rằng “Hội thề” đã “xuyên tạc”, “phản”  lịch sử,...mặc dù những người tán thưởng ra sức bảo vệ cái gọi là “đặc trưng” của tác phẩm nghệ thuật là quyền được hư cấu của nghệ sĩ. Tuy nhiên như trên tôi đã nói, mọi vấn đề, kể cả hư cấu nghệ thuật cũng đều có ngưỡng của nó, nếu vượt quá ngưỡng đó, thì việc hư cấu nhanh chóng biến thành sự bịa đặt thiếu tính trung thực lịch sử và phi logic khách quan. Liệu đây có phải là sự non tay, không lường trước được của một cây bút lão luyện như Nguyễn Quang Thân hay chỉ là một tai nạn nghề nghiệp của ông !?
II.2. Tuy nhiên, một số người cố gắng ủng hộ quá trình tìm tòi của nghệ sĩ, anh ta có quyền và cần thiết phải mô tả cho được những “góc khuất” của lịch sử, cái mà các sử gia ở bất cứ thời nào cũng đều chỉ có botay.com. Đi xa hơn, họ cho rằng đấy là quyền năng tối cao bất khả xâm phạm của nghệ sĩ. Vì thế, khi xem xét tác phẩm, họ chỉ để tâm đến các tình tiết, nhân vật hay sự kiện mô tả về những “góc khuất” ấy mà chủ yếu do nhà văn hư cấu nên, hơn là những điều đã được sử sách ghi chép sờ sờ. Nhưng nhà văn vẫn cứ phớt lờ những điều ấy, thay vào đó là những tình tiết, sự kiện, nhân vật được mô tả quá sai lệch so với những gì đã được lịch sử kiểm chứng.
Chẳng hạn như hình tượng nhân vật Thái Phúc là một trong số những tướng lĩnh nhà Minh được nhà văn Nguyễn Quang Thân dày công xây dựng, tỉa tót. Cứ như những gì đã mô tả trong tác phẩm thì cả hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi đều phải mang ơn ông ta dài dài, vì Thái Phúc là một người vừa “cao thượng” lại vừa “chịu chơi” đến thế không thể không mang ơn được!? Nhưng theo tài liệu lịch sử thì: sau khi Phương Chính, Lý An rút quân về thành Đông Quan, giao thành Nghệ An lại cho Thái Phúc cố thủ từ ngày 17-10-1426 (ngày 17 tháng 9 năm Bính Ngọ). Đến tháng 2 năm 1427, Thái Phúc nộp thành cho nghĩa quân xin hàng (Quân trung từ mệnh tập). Vì thế trong “Bình Ngô đại cáo”, chỉ duy nhất có một lần Nguyễn Trãi nhắc đến ông quan Thượng thư tên Phúc, nhưng là Hoàng Phúc chứ không phải là Thái Phúc:
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Như vậy, Thượng thư Hoàng Phúc mới là nhân vật quan trọng hơn và là người có thể sánh ngang với quan Thái sư Nguyễn Trãi so với viên tướng trấn thủ Nghệ An Thái Phúc. Nhưng Nguyễn Quang Thân, không rõ lý do gì lại đặt viên tướng hàng tỉnh Thái Phúc ngang hàng và là người có quan hệ và sánh ngang hàng Nguyễn Trãi và Nguyễn Phi Khanh như trong tác phẩm đã miêu tả, nhất là ở thời điểm thế kỷ XV khi Nho giáo đang thịnh trị nên vấn đề thứ bậc, lớp lang trong triều chính là hết sức nghiêm ngặt cả ở Trung Quốc lẫn Đại Việt lúc bầy giờ. Vì thế, Nguyễn Trãi đã không tốn giấy mức để nhắc đến tên Thái Phúc, dù chỉ một lần, trong áng văn bất hủ của mình.
Tóm lại, sẽ là sai lầm không kém nếu ai đó cho rằng khi tái hiện những sự kiện và nhân vật lịch sử, người nghệ sỹ không được phép làm thay đổi lịch sử như nó vốn có cũng như cho rằng viết về những sự kiện, nhân vật lịch sử người nghệ sĩ muốn hư cấu thế nào cũng được. Không sao chép lịch sử, nhưng hư cấu cần phải có mức độ. Đấy là ranh giới của một tài năng tiểu thuyết thực thụ với những người mới cầm bút. Vẫn biết rằng, ngay cả những cuốn biên niên sử đương thời hay hậu thế cũng không thể nào ghi chép một cách đầy đủ và thật sự chính xác những sự kiện đã từng xảy ra. Theo tôi vấn đề này đã được Nguyễn Xuân Khánh lý giải một cách khá thuyết phục qua việc hư cấu hình tượng nhà chép sử Văn Hoa trong tiểu thuyết “Hồ Quí Ly” của ông.
Hạ chầu
Cuộc tranh luận về tiểu thuyết “Hội thề” của nhà văn Nguyễn Quang Thân, với những người bàng quan, ít quan tâm chú ý đến dễ thường nghĩ rằng đấy chỉ là những vấn đề khoa học và nghệ thuật thuần tuý. Những người đứng về phái “phàm là” I, bằng sự hiểu biết của mình, ra sức chứng minh việc trao giải cho “Hội thề” là hoàn toàn xứng đáng. Bởi lẽ so với mặt bằng tiểu thuyết hiện nay, tác phẩm này đã tái hiện lại một giai đoạn lịch sử vốn còn nghiều “góc khuất” chưa được thể hiện trong chính sử trong vòng gần 600 năm qua với một bút pháp chắc tay đến “lão luyện” của nhà văn Nguyễn Quang Thân, theo tinh thần đối với lịch sử, nhiều khi các sử gia bảo là đã được giải quyết xong, còn nhà văn lại bảo chưa. Còn những người theo phái “phàm là” II cũng chẳng chịu kém cạnh, cũng bằng nhận thức chủ quan, họ đã viết nhiều bài tranh luận, quyết “chiến đấu” đến cùng với phái “phàm là” I, không bao giờ chấp nhận việc trao giải thưởng cho một tác phẩm còn nhiều vấn đề bất cập như “Hội thề”. Không biết có phải những người thẩm văn chương Việt cũng giống như những ông thầy bói xem voi?
Có người lại bảo, các bác nhà văn ta vẫn thế, lâu lâu lại “nổ” ra cuộc tranh luận thế cho vui, cốt là để chứng minh với thiên hạ rằng, trên đời này ngoài kính thưa các loại nhà vẫn còn có một số người được gọi là nhà văn nữa cơ đấy hoặc chí ít cũng gây nên một sự ồn ã cần thiết nhằm khuấy động văn đàn. Còn một số người khác dù biết mười mươi những chuyện gì đã, đang và sẽ xảy ra từ/sau những cuộc xét và trao giải các tác phẩm văn chương, rồi đến những cuộc tranh luận về nó kiểu ấy, nhưng họ dùng kế sách “kính nhi viễn chi”. Tuỳ theo điều kiện, học vấn và quan hệ, mỗi người có quyền chọn cho mình một cách hành xử riêng. Thậm chí có những người không đồng tình bỏ phiếu khi chấm giải, nhưng khi thấy những người thuộc phái “phàm là” II cố tình phủ nhận một tác phẩm nào đó, lại viết bài ủng hộ nó, hoặc có người dù đã bỏ phiếu rồi, nhưng sau đó lại quay sang chửi,...
Vậy xem ra ủng hộ hay phản đối là tuỳ thuộc vào những cơn “máu me” của người cầm bút, hơn là vì sự phát triển lành mạnh của văn chương nước nhà. Thực tế là trình độ thẩm văn của những người cầm cân nảy mực dù có muốn hay không cũng chẳng tài nào thoát khỏi tâm lý người Việt từ xưa đến nay được. Anh ta dù có “một trăm cái lý”, nhưng đâu phải lúc nào cũng thắng nổi “một tí cái tình”. “Cái nước mình nó thế” đúng như cố nhà văn Hoàng Ngọc Hiến đã nói từ lâu. Các chú phê phán thế là đúng, anh xin rút kinh nghiệm, đừng cãi nhau làm gì cho mất đoàn kết (!?). Rồi sẽ hoà cả làng cho mà xem./.
Nguồn: