Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

ĐỂ CHO QUẢNG TRƯỜNG ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC XỨNG ĐÁNG VỚI TÊN GỌI

Thái Kế Toại
Thứ ba ngày 16 tháng 9 năm 2025 2:40 PM




Mươi lăm ngày nay mọi người băn khoăn về việc Chính quyền Hà Nội lúng túng trong việc bù đắp không gian văn hóa cho khoảng trống của quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục do sự biến mất của tòa nhà Hàm cá mập để lại. Mọi người cũng mong muốn Hà Nội tạo được một không gian văn hóa cho Quảng trường văn minh hơn, hiện đại hơn, văn hóa hơn.

Tôi rất tán thành ý tưởng tốt đẹp đó, nay xin góp ý như sau:

Từ rất lâu rồi Hà Nội đã không chú ý tới cái tên Đông Kinh Nghĩa Thục, một cái tên có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử cách mạng, lịch sử văn hóa dân tộc. Chính vì thế mới để quảng trường nhếch nhác, để hàm cá mập xuất hiện. Cái đau lòng là tôi cảm thấy tâm thức một số người gắn bó với hàm cá mập mà không nghĩ tới cái tên Đông Kinh Nghĩa Thục.

Trước hết Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục là sự ghi nhận một phong trào yêu nước, phong trào các mạng của dân tộc. Chúng ta hãy quay về lịch sử.

Đầu thế kỷ 20, Pháp hầu như đã hoàn thành quá trình bình định, dẹp yên các cuộc khởi nghĩa yêu nước bên trong Việt Nam (chỉ còn phong trào Khởi nghĩa Yên Thế của Đề Thám còn đang hoạt động, nhưng chỉ ở diện hẹp và bị dập tắt hoàn toàn vào năm 1913). Cùng với việc mở rộng quá trình thực dân hoá, tư bản hóa nhằm khai thác thuộc địa một cách hiệu quả nhất, những cơ sở đầu tiên của kinh tế tư sản bắt đầu phát triển trên toàn lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Song song với sự phát triển kinh tế, những tư tưởng tư bản cũng du nhập và phát triển bên trong Việt Nam. Các nhà nho có tư tưởng tiến bộ nhận thức được sự yếu kém của quốc dân, chứng kiến nước Nhật Bản duy tân đã quyết định phải thay đổi tư tưởng, cách thức học tập trong nước nhằm mục đích tự cường hy vọng một cuộc đổi mới.

Cuối năm 1906, sau khi hội kiến với Phan Bội Châu ở Nhật về nước, Phan Chu Trinh đã gặp gỡ Lương Văn Can và nêu ý định thành lập một trường học kiểu mới, giống mô hình của trường Khánh Ứng Nghĩa thục ở Nhật.

Dưới thời Thiên hoàng Minh Trị, học giả Fukuzawa Yukichi đã thành lập Trường Khánh Ứng Nghĩa thục vào năm 1868 ở Nhật Bản theo mô hình "public school" của nước Anh bao gồm việc truyền bá bốn tính cách quan trọng cho học sinh đó là tính tự cường, ý chí độc lập, óc tháo vát và lòng tự nguyện đóng góp vào các việc công ích, công thiện.

Một thời gian sau, Phan Bội Châu cũng về nước, cùng Phan Chu Trinh, Lương Văn Can và Tăng Bạt Hổ họp tại phố Hàng Đào, quyết định mở trường, lấy tên là Đông Kinh Nghĩa thục với mục đích: khai chí (trí) cho dân, mở những lớp dạy học không lấy tiền. Đông Kinh là tên trường, Nghĩa Thục là trường làm việc nghĩa.

Lương Văn Can được cử làm Thục trưởng (Hiệu trưởng). Nguyễn Quyền làm học giám.

Phong trào có mục tiêu:

Nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc và chí tiến thủ của quần chúng.

Truyền bá một nền tư tưởng học thuật mới và một nếp sống văn minh tiến bộ.

Phối hợp hành động với các sĩ phu đã xuất dương và hỗ trợ các phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh đang phát triển trong cả nước.

Bỏ lối học từ chương, du nhập những tư tưởng mới, phát triển văn hoá, thúc đẩy sử dụng chữ quốc ngữ thông qua các hoạt động giáo dục (dịch, viết sách giáo khoa), báo chí, tuyên truyền, cổ động.

Chấn hưng thực nghiệp. Mở tiệm buôn, phát triển công thương.

Đông Kinh Nghĩa Thục nhanh chóng trở nên nổi tiếng bên trong Hà Nội, nhiều tỉnh lân cận cũng đã có các hội nhóm mở lớp, xin sách giáo khoa của trường về giảng dạy. Bắt đầu là ở Hà Đông, quê hương của nhiều sáng lập viên nghĩa thục có tên tuổi như Vũ Trác, Hoàng Tăng Bí; ở Hoài Đức còn có 3 phân hiệu nghĩa thục ở thôn Canh, Tây Mỗ, Tân Hội; ở Hưng Yên cũng có 2 huyện có nghĩa thục, lại còn mở thêm một hiệu buôn nội hoá là Hưng Lợi Tế. Hải Dương, Thái Bình, nghĩa thục cũng phát triển khá mạnh mẽ, lại còn tổ chức ra nhiều hội ái hữu, tương tế. Thậm chí, nghĩa thục của Thái Bình còn cử người đi liên hệ với phong trào chống Pháp của Hoàng Hoa Thám (hay Đề Thám), muốn ứng viện cho nghĩa quân Yên Thế.

Ban đầu, chính quyền Pháp cho phép cho Đông Kinh Nghĩa Thục hoạt động hợp pháp, về sau nhận thấy đây có thể là một mối nguy đối với chế độ thuộc địa, vào tháng 11 năm 1907 trường bị chính quyền thực dân buộc phải giải tán và đầu năm 1908, ra lệnh cấm việc hội họp diễn thuyết ở miền Trung.

Vì đây là một phong trào "có ý nghĩa cách mạng", và đã lan đi rất nhanh khiến thực dân Pháp rất lo sợ. Trong phiên họp Hội đồng quân sự Đông Dương, nhà cầm quyền Pháp đã nhận định: "Không còn là một câu chuyện hoang đường khi khẳng định rằng Đông Kinh Nghĩa Thục đã là một cái lò phiến loạn ở Bắc Kỳ".

Ngày tháng 12 năm 1907, trường Đông Kinh Nghĩa bị giải tán, Lương Văn Can bị thực dân Pháp bắt giam.

Sau vụ chống thuế Trung kỳ (tháng 3 năm 1908) và vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội (tháng 6 năm 1908), chế độ thuộc địa của Pháp nhân đó quy trách nhiệm cho sĩ phu duy tân và thẳng tay đàn áp, bắt hầu hết giáo viên, giải tán hội buôn, đóng cửa Đăng Cổ Tùng Báo, cấm diễn thuyết, nói chuyện, cấm lưu hành và tàng trữ các tác phẩm của nhà trường.

Lương Văn Can sáng lập viên chính của Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục

Ông sinh năm Giáp Dần (1854) tại làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Nội (nay là xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội).

Vốn là con nhà nghèo, nên hồi còn trẻ, có lần ông phải đi làm thợ sơn trong vài tháng[3].

Sau khi học chữ Hán tại Hà Nội (ngày nay là nhà số 7 phố Trường Thi), năm 1871 đời Tự Đức, 17 tuổi, ông dự thi Hương, nhưng chỉ vào tới tam trường.

Năm Quý Dậu (1873), quân Pháp đánh thành Hà Nội (lần thứ nhất). Sau khi nghị hòa với họ, năm Giáp Tuất, (1874), triều đình Huế lại tổ chức thi Hương tại đây, và ông đã đỗ Cử nhân khoa này (nên khi tuổi cao, ông thường được gọi là cụ Cử Can).

Năm sau thi Hội, ông không đỗ (chỉ vào được một hai kỳ), được triều đình bổ làm Giáo thụ Phủ Hoài (tức Hoài Đức), nhưng ông từ chối. Sau chính phủ Pháp cử ông vào Hội đồng thành phố Hà Nội, nhưng ông cũng không nhận.

Tháng 3 năm 1907, ông liên kết với một số người cùng chí hướng lập ra trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại số 4 (nơi ông ở) và số 10 ở phố Hàng Đào.

Vì đây là một phong trào có ý nghĩa cách mạng, và đã lan đi rất nhanh khiến thực dân Pháp rất lo sợ. Trong phiên họp Hội đồng quân sự Đông Dương, nhà cầm quyền Pháp đã nhận định: "Không còn là một câu chuyện hoang đường khi khẳng định rằng Đông Kinh Nghĩa Thục đã là một cái lò phiến loạn ở Bắc Kỳ". Vì vậy, ngay tháng 12 năm 1907, trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị giải tán.

Ít lâu sau nhân vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội (27 tháng 6 năm 1908), thực dân Pháp cho bắt Lương Văn Can để khai thác những tin tức về vụ ấy, nhưng do không có chứng cớ kết tội nên phải thả ông.

Ngày 26 tháng 4 năm 1913, xảy ra vụ đánh bom khách sạn Hà Nội của Việt Nam Quang phục Hội. Cho là nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục có liên quan, nên thực dân Pháp đã bắt Lương Văn Can giam ở nhà pha Hỏa Lò (Hà Nội).

Vì "Pháp bắt Nghĩa đảng đến mấy trăm người, nên xét xử đến tháng 8 năm đó mới xong. Kết án chém 7 người, đày chung thân 9 người, khổ sai và biệt xứ từ 10 đến 30 năm, cộng 56 người". Trong số ấy, Lương Văn Can bị kết án biệt xứ, lưu đày sang Nam Vang (nay thuộc vương quốc Campuchia).

Hơn 8 năm sau, Lương Văn Can được giảm án, trở về Hà Nội ngày 25 tháng 11 năm 1921. Về nhà, thấy "nghĩa đảng tan lạc hết (nên) chỉ nghĩ chỉ đến việc làm sách". Tuy nhiên, sau đó ông lại tiếp tục mở trường Ôn Như, tức vừa dạy học vừa soạn sách.

Ngày 13 tháng 6 năm 1927 (Đinh Mão), ông qua đời tại Hà Nội, thọ 73 tuổi. Trước khi mất, ông dặn các con cháu: "Bảo quốc túy, tuyết quốc sỉ" (Giữ tinh hoa của nước, rửa nhục nước).

Trong số các hậu duệ của ông còn có những người chí sĩ yêu nước như Lương Nhị Khanh, Lương Ngọc Quyến. Nhạc sỹ Tử Phác trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm là một người cháu rể của ông.

Cộng tác với Lương Văn Can còn có nhiếu sĩ phu yêu nước như:

Đào Nguyên Phổ, Phan Tuấn Phong, Đặng Kinh Luân, Dương Bá Trạc, Lê Đại, Vũ Hoành, Phan Đình Đối, Phan Huy Thịnh, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Quyền,

Tuy số sách của phong trào đã bị thất lạc. Nhưng những bài ca xuất phát từ phong trào đã được nhiều người cùng thời học thuộc lòng và được truyền lại tới ngày nay. Nổi bật là là Hải ngoại huyết thư được cụ Lê Đại dịch của Phan Bội Châu. Nhờ vậy bài thơ được lưu hành khắp nước Việt Nam và là nguồn cổ vũ cho phong trào yêu nước đầu thế kỷ 20.

Không chỉ dịch thơ, các nhà nho trong phong trào còn sáng tác nhiều bài thơ yêu nước. Ngoài những bài thơ do các nhà nho sáng tác, những bài thơ khuyết danh cũng là nguồn cảm hứng yêu nước cho nhân dân và cổ vũ duy tân. Ví dụ như Á Tế Á, Vợ khuyên chồng, Khuyên con,...

Đông Kinh Nghĩa Thục được đánh giá là một sự đột biến trong tiến trình cách mạng Việt Nam được tổ chức theo một kiểu mẫu mới của các nhà nho tân học khác với một số phong trào yêu nước trước đó và hiện thời. Với phương pháp tuyên truyền vận động mới, giảng dạy mới Đông Kinh Nghĩa Thục mở ra một phương hướng cách mạng mới, bằng hoạt động công khai truyền bá tư tưởng yêu nước, tư tưởng canh tân, nhằm mở mang dân trí, dân sinh, khiến cho nước giàu dân mạnh, xã hội văn minh, tiến tới thực hiện mục đích cuối cùng, giải phóng dân tộc, giành lại nền độc lập, tự do dân chủ cho đất nước.

Hà Nội cần thể hiện sự trân trọng với những di sản do Đông Kinh Nghĩa Thục để lại. Hiện tại tên quảng trường đã có. Cạnh quảng trường đã có phố Lương Văn Can. Trường học và nơi ở của Lương Văn Can ở sổ 4, số 10 Hàng Đào. Việc mở rộng quảng trường là một cơ hội để làm cho không gian ở đây mang đến cho Thủ đô một tưởng niệm về một phong trào cách mạng, văn hóa có ý nghĩa truyền bá văn minh và tiến bộ xã hội. Thay vào chỗ màn hình led có thể là tượng bán thân Lương Văn Can, những hình ảnh mang nội dung Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục chẳng hạn.

Mong Chính quyền Hà Nội và các nhà kiến trúc thiết kế quảng trường cần chú ý ý nghĩa này.

Hà Nội 9-2025