Thời Pháp thuộc, con đường đất từ chỗ ngã 3 phố Nguyễn Thái Học gần bến xe Kim Mã đến đường La Thành chưa có tên gọi. Con đường này vốn là vết tích của bức tường đất vòng giữa của kinh thành Thăng Long xưa. Con đường gồ sống trâu đó là ranh giới giữa hai làng Giảng Võ và Hào Nam, hai bên đường là đồng ruộng xen kẽ các hồ ao, mồ mả. Phải đến 1945, trên bản đồ Hà Nội mới thấy đoạn đường từ Nguyễn Thái Học đến Cát Linh ghi là phố Đại La - Kim Mã (ghi như thế để phân biệt với phố Đại La đi từ ngã tư Vọng đến ngã tư chợ Mơ), đoạn còn lại từ Cát Linh đến đường La Thành gọi là đường Đê La Thành. Đến 1964 Thành phố nhập cả hai đoạn phố đó làm một, đặt tên là đường Giảng Võ như ngày nay.
Sở dĩ tôi nói sơ lược về nguồn gốc của đường Giảng Võ như vậy vì đoạn đầu của đường Giảng Võ xưa kia gọi là phố Đại La liên quan đến câu chuyện sau đây:
Trước những năm 30 thế kỷ XX, chỉ có nhà ở khu phố Tây và một số ít các biệt thự ở khu phố cũ là có chuồng xí tự hoại, dân Hà Nội gọi là chuồng xí máy, vì khi đi vệ sinh xong chỉ việc giật dây xích một cái là có nước ào ra từ trong két nước bằng gang treo trên cao, theo đường ống xối sạch phân, tống xuống bể phốt ngầm được xây từ lúc xây móng nhà. Còn hầu hết nhà dân trong khu phố cổ và các khu phố khác đều sử dụng chuồng xí thùng. Khi thùng đầy phân, các gia đình phải thuê người thay thùng mới và mang thùng đầy đi đổ xuống các sông, hồ. Nếu công việc đổi thùng này mà cứ để cho các gia đình tùy tiện thuê người làm như vậy sẽ rất mất vệ sinh và ô nhiễm môi trường thành phố. Hội đồng Thành phố quyết định chọn nhà thầu làm công việc này với các quy định: công việc chỉ được làm vào ban đêm, phải có bể kín chứa phân tập trung và phải ở nơi xa trung tâm Thành phố.
Lúc bấy giờ có một người tên là Năm Diệm (có tài liệu ghi là Năm Giệm), đã trúng thầu công việc này. Không rõ ông quê ở đâu, chỉ biết đã lên Hà Nội sinh sống đủ nghề để kiếm sống, từ làm công cho nhà máy xe điện, đến làm đại lý bán gạch, ngói... Khi đã tích cóp được khoản tiền kha khá, ông đã mua một khu đất lớn ở phố Đại La (là đoạn đầu đường Giảng Võ ngày nay, như đã nói ở trên), khi đó khu vực này còn là ruộng xen lẫn hồ ao, nhà dân rất thưa thớt và đặc biệt là gần các hồ Hào Nam, hồ Giảng Võ và hồ Tám Mái. Cơ sở của ông Năm Diệm có mặt bằng từ sát cạnh Nhà Tiền tức Nhà in Tiến Bộ hiện nay, đến đầu Giảng Võ chỗ gần bến xe Kim Mã, chiều sâu từ Nguyễn Thái Học đến Cát Linh. Ông Năm Diệm cho làm bãi để xe ba gác, chỗ để thùng trong nhà mái tôn, xây bể chứa phân, nơi rửa sạch thùng là hồ Hào Nam và các hồ ở gần đấy. Ông còn xây dẫy nhà thấp, lợp lá cho phu đổi thùng thuê với giá rẻ. Sở dĩ ông Năm Diệm trúng thầu vì đã đáp ứng được các yêu cầu của Hội đồng Thành phố đặt ra.
Từ đó ở Hà Nội khi màn đêm buông xuống là có những chiếc xe ba gác do một người kéo, một người đẩy, lọc cọc chở những chiếc thùng tôn rỗng đi vào các phố, tiếng đập cửa, tiếng gọi đổi thùng vang trong đêm khuya khoắt. Chính vì thế mà ở Hà Nội khi xây nhà ở, người ta thường làm thêm một cửa hậu, nếu không có mặt hậu thì làm một lối đi hẹp bên cạnh nhà để tiện cho công việc đổi thùng.
Việc đổi thùng diễn ra cũng nhanh vì phu chỉ lấy thùng đầy ra rồi đặt thùng không vào là xong. Phân thu về một phần phu kéo thẳng đến các vùng trồng rau ngoại thành như Canh, Diễn, Vòng hay làng Láng là nơi chuyên trồng rau húng, theo các thỏa thuận mua bán đã có trước, phần còn lại đổ vào bể xi măng xây chìm để bán cho chủ các đầm, hồ nuôi cá.
Do vậy phân bắc cũng trở thành một mặt hàng có sự cạnh tranh từ nguồn khai thác đến nơi tiêu thụ. Ngoài những phu đổi thùng của sở vệ sinh Năm Diệm, còn có một lực lượng những người đổi thùng lậu. Nói là đổi thùng nhưng thật ra là họ không có thùng để đổi, mà chỉ có quang gánh với 2 cái thúng và một cái gáo có cán dài để múc phân từ thùng đổ vào thúng. Đêm đêm họ vào Thành phố lấy phân của các gia đình không ký hợp đồng đổi thùng với sở vệ sinh Năm Diệm, và lấy trộm phân ở những nhà vệ sinh công cộng. Một chợ bán phân bắc cũng không kém phần nhộn nhịp được hình thành ven đường quốc lộ 32, từ Cầu Giấy đến lối rẽ vào chùa Hà, chợ phân này họp trong ánh đuốc lập lòe từ nửa đêm đến tang tảng sáng mới giải tán.
Công việc đổi thùng phải làm trong đêm lại bẩn thỉu, hôi thối, vất vả, nên phu đổi thùng đa số là những người nông dân nghèo khó, ít học ở các vùng quê lân cận Hà Nội. Tôi còn nhớ, một thời nhiều gia đình ở Hà Nội hay dạy con bằng câu " Không chịu khó học hành, học dốt thì sau này chỉ có đi đổ thùng" (đúng ra phải là đổi thùng)
Khi đã giầu có bằng công việc này ông Năm Diệm thôi thầu đổi thùng cho Thành phố. Thay ông Năm Diệm làm việc này là một công ty vệ sinh của một người Pháp tên là Darty, ông Tây này lập cơ sở lùi vào đường Đê La Thành, ở chỗ nay là khu vực nhà để xe ô tô cứu hỏa trên đường Giảng Võ. Theo lời kể của những người Hà Nội đương thời: phân thu gom về, ông chủ công ty người Pháp đã đưa vào dây chuyền sấy khô, nghiền thành bột, đóng bao chở về Pháp bán cho các trang trại trồng nho ở vùng Booc - đô. Không biết có đúng là như vậy không.
Đến năm 1939, một người Việt Nam trúng thầu và ông này đặt công ty ở chân đê La Thành, khu vực gần Ô Chợ Dừa ngay cạnh một cái đầm nước, dân quanh vùng gọi là Trại Xia (ngày nay là vị trí đầu phố Hoàng Cầu).
Sau ngày Tiếp quản Hà Nội năm 1954, công ty tư nhân này vẫn hoạt động cho đến thập niên 60 thì nhà nước quốc hữu hóa thành công ty vệ sinh môi trường. Những người phu đổi thùng được gọi là công nhân vệ sinh môi trường.
Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và những năm dưới chế độ bao cấp, ở mạn Cổ Nhuế về sáng cũng có một chợ bán phân người. “Hàng hóa” được người dân vùng ấy vào nội thành khai thác từ nửa đêm.Thời ấy, trong dân gian có câu ca dao rất hài hước:
"Thanh niên Cổ Nhuế xin thề
Chưa đầy hai sọt chưa về quê hương!"
Lại nói tiếp, vào khoảng năm 1920, sau khi thôi công việc đổi thùng, ông Năm Diệm chuyển sang lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng. Ông xây nhà máy sản xuất gạch, ngói trên chính khuôn viên bãi để xe và để thùng của sở vệ sinh. Đây là nhà máy sản xuất gạch nung rất lớn ở Hà Nội, chiếm một khu đất rộng quay ra hai mặt đường Đại La và Cát Linh, mỗi chiều tới mấy trăm mét. Cổng chính mở về phố Đại La, tức đường Giảng Võ ngày nay. Nhà máy có lò nung, sân phơi gạch trước khi đưa vào lò, bãi đổ đất là nguyên liệu đóng gạch từ các nơi chở về. Bên cạnh nhà máy là khu nhà ở của gia đình ông Năm Diệm, là ngôi biệt thự cổ xây dựng theo kiến trúc Pháp, có một ngõ đi riêng từ đường Đại La đi vào, nay là ngõ 203 Giảng Võ. Cách đấy vài số nhà có một ngõ để cho người lao đông ra, vào gọi là ngõ Văn Lan.(lấy tên người con trai cả của ông Năm Diệm). Đặc biệt nhất là nhà máy có ba ống khói xây hoàn toàn bằng gạch nung theo kết cấu hình ống có cột cao tới 50 mét, cao to như chiếc “cột chống trời”, là công trình kiến trúc có độ cao lớn nhất ở Hà Nội thời ấy.
Nhà máy gạch Đại La của ông Năm Diệm hoạt động từ 1920 đến sau ngày Tiếp quản Hà Nội 1954. Sau cuộc cải tạo Tư bản, tư doanh, nhà máy thuộc quyền quản lý của nhà nước. Nhà máy đã thu hút được lực lượng người lao động hùng hậu, đóng góp sản lượng gạch, ngói đáng kể trong ngành sản xuất vật xây dựng ở Thủ đô.
Vào đầu năm 1990, Thành phố chủ trương đưa tất cả các doanh nghiệp có khí thải và chất thải gây ô nhiễm môi trường ra khỏi Hà Nội, nhà máy gạch Đại La phải dừng hoạt động.
Năm 1991 nhà máy gạch Đại La bị phá đi, miếng đất vàng này được giao cho một tập đoàn nước ngoài của các đại gia người Indonesia để xây khách sạn. Đến 1998 một khách sạn cao cấp 5 sao mọc lên, đó là khách sạn Horison mang biển số nhà 40 Cát Linh, đến 2012 lại đổi tên là khách sạn Pullman - Hà Nội đến ngày nay.
Một điều thú vị là một trong ba chiếc ống khói 100 tuổi của nhà máy gạch Đại La vẫn được các ông chủ giữ lại, đứng sừng sững, hiên ngang, cao tới 50 m trước mặt khách sạn, là điểm nhấn trang trí độc đáo có một không hai trong hệ thống các khách sạn cao cấp ở Hà Nội. Ống khói nhà máy gạch Đại La được xem như một "chứng nhân lịch sử", đồng thời là biểu trưng của khách sạn Pullman, mà trước đây là khách sạn Horison. Nhưng đến ngày nay, thương hiệu gạch, ngói Đại La vẫn còn in đậm trong ký ức nhiều thế hệ người Hà Nội.
Thật nực cười khi thấy báo Dân trí ra ngày Thứ sáu, 10/10/2014 viết:
(Dân trí) - Chiếc ống khói của nhà máy gạch Đại La là một trong những công trình cao nhất của thời bao cấp đến nay vẫn còn sót lại....
Cách đây 3 năm, tôi đã đăng bài viết này, đã nhận được nhiều bình luận, và các ý kiến bổ sung, của hậu duệ cụ Năm Diệm và những người là hậu duệ của những cán bộ, công nhân nhà máy gạch Đại La. Những nhân chứng sống đó giúp tôi tự tin chỉnh sửa, bổ sung để viết lại bài khảo cứu này.
Xin cảm ơn các ông, bà:
Lam Thanh (chắt cụ Năm Diệm), Tony Vu, Nguyễn Ngọc Thắng, Hung Henry DO, Tô Chí Tuấn, Tạ Quang Khải,
Các ông Nguyễn Đỗ, Hoang Hiep Nguyen, Ngô Thế Long đã cung cấp ảnh và không ảnh nhà máy gạch Đại La
Tài liệu tham khảo: - Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX của ông Nguyễn Văn Uẩn