Trang chủ » Tin văn và...

RỒI CỘNG HÒA LIÊN BANG TRUNG HOA SẼ ĐẾN

Phạm Thị Hoài dịch
Thứ bẩy ngày 22 tháng 2 năm 2020 7:54 AM



Phỏng vấn sau đây đăng trong tạp chí trực tuyến Nhân vật và Ý tưởng của Học viện Khoa học Berlin. Giáo sư Trương Thiên Phàm (Zhang Qianfan, 张千帆) của Đại học Bắc Kinh là học giả hàng đầu về luật hiến pháp ở Trung Quốc. Gần đây nhất, khi bác sĩ Lí Văn Lượng qua đời vì nhiễm virus Covid-19, ông đã đồng ký tên trong Thư ngỏ gửi Quốc hội và Ủy ban Thường vụ yêu cầu thực thi tự do ngôn luận. Phỏng vấn do nhà báo, người sáng lập và chủ biên Blog Hiến Pháp, Maximilian Steinbeis thực hiện. Bản dịch được sự đồng ý của Học viện Khoa học Berlin.

Người dịch

Maximilian Steinbeis: Thưa giáo sư Trương, ông đến Học viện Khoa học để nghiên cứu cách hoạt động của mô hình liên bang tại Đức, trước đây ông cũng từng sang Hoa Kỳ nghiên cứu đề tài này. Trung Quốc có trên 2000 năm kinh nghiệm cai quản một lãnh thổ khổng lồ với hàng trăm triệu cư dân từ một trung tâm quyền lực duy nhất. Vì sao sau một thời gian dài như vậy, mô hình liên bang lại thú vị đối với Trung Quốc?

Trương Thiên Phàm: Tôi chỉ có thể nói rằng mô hình liên bang được một số trí thức Trung Quốc quan tâm nghiêm túc, trong khi chính quyền thì chưa bao giờ chấp nhận. Nhưng một lúc nào đó trong tương lai, rồi Trung Quốc sẽ ra một hiến pháp liên bang và áp dụng thể chế liên bang, vì hệ thống hiện nay không thể hoạt động. Vì vậy, kinh nghiệm của Đức với thể chế liên bang rất quan trọng với Trung Quốc.

Chính quyền Trung Quốc lúc nào cũng có vấn đề, nhưng trong những năm gần đây thì ngày càng nhiều, do các chuyển đổi kinh tế và xã hội thời đại này. Tần Thủy Hoàng, vị hoàng đế đầu tiên thống nhất Trung Quốc vào khoảng năm 220 TCN, chấm dứt thời Chiến quốc trường kỳ và tàn bạo, đã áp dụng một mô hình tập quyền rất đơn giản mà thực ra cho đến nay vẫn tiếp tục tồn tại. Thời đó Trung Quốc đã là một đất nước khổng lồ, tuy dân số ít hơn nhiều. Mô hình cai trị đó hết sức tập quyền, nhưng không thật hiệu quả vì những giới hạn vật chất. “Thiên cao, hoàng đế viễn”, như thành ngữ của chúng tôi đã nói, tức địa phương có đủ sân chơi để tự tung tự tác. Nếu mọi chuyện ổn thỏa thì giới chức địa phương cứ việc bình chân, nhưng khi có sự cố và chính quyền trung ương phải để mắt đến thì họ bị trừng phạt. Kết quả là ở bên dưới, chúng tôi tương đối có đa dạng, nhưng chẳng qua chỉ vì trung ương không đủ sức với tay tới từng vụ việc cụ thể ở địa phương mà thôi.

Maximilian Steinbeis: Có nghĩa là ngoài trung tâm quyền lực, chưa bao giờ có một cơ cấu thẩm quyền khác được hợp thức hóa?

Trương Thiên Phàm: Cách trở trong giao thông và truyền thông đã cho phép một không gian đa dạng nhất định và một tinh thần đa nguyên nào đó tồn tại ở tầng dưới, nhưng điều đó chưa bao giờ được định chế hóa – cho đến nay cũng vậy, vì cơ cấu định chế của chúng tôi về cơ bản hầu như không thay đổi suốt bao nhiêu thế kỷ. Chúng tôi vẫn giữ một chính quyền trung ương có quyền ra luật vô giới hạn. Trung ương ra một chỉ thị và cả nước phải thống nhất chấp hành, bất kể có phù hợp hay không. Ở Trung Quốc, chúng tôi gọi đó là “nhất đao thiết”, một con dao thái mọi thứ, to nhỏ lớn bé gì thì chúng tôi cũng thái hết thành cùng một kích cỡ. Thí dụ: Ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc rất trầm trọng, vì thế chính phủ quyết định không cho dùng than sưởi mùa đông nữa. Hệ thống cung cấp than bị đình chỉ, thay bằng khí đốt. Nhưng ở nhiều nơi, các biện pháp cho mùa đông chưa hề được tiến hành. Chính quyền trung ương không biết nơi nào có khả năng thi hành, nơi nào không. Chính quyền địa phương thì có thể biết, nhưng việc duy nhất mà họ có thể làm trong một nhà nước tập quyền đơn nhất là chấp hành chỉ thị từ trung ương.

Maximilian Steinbeis: Nhưng đó thậm chí chưa phải là câu chuyện về quyền tự quản và sự khác biệt giữa các địa phương. Không bị chết cóng trong mùa đông là một nhu cầu phổ quát. Vì sao chính quyền trung ương không cho phép địa phương linh động để đáp ứng nhu cầu đó?

Trương Thiên Phàm: Không phải là trong thực tế không có điều kiện để linh động. Điều kiện thì có thừa, và quả thực vấn đề chính là ở chỗ đó. Giới chức địa phương vi phạm luật pháp và nhân quyền rất nhiều. Tham nhũng rõ ràng là một vấn nạn hết sức phổ biến và thường là ở địa phương, trong khi chính quyền trung ương nhiều khi không có đủ cả thông tin lẫn nhân sự và quyết tâm diệt tham nhũng. Về nguyên tắc, trung ương đưa ra mọi quyết định chính trị quan trọng và địa phương phải thi hành. Nhưng khi chính sách đi ngược lợi ích riêng của địa phương thì địa phương thừa khả năng ngăn cản. Ngay cả những chính sách của nhà nước có lợi cho dân chúng cũng không được thi hành, chừng nào chưa có áp lực từ bên dưới. Thí dụ, cứu trợ từ trung ương cho những vùng gặp tai họa. Nhưng mọi quan chức liên quan đều xà xẻo, mỗi người “vặt một cái lông con chim”, nên khi đến được tay người cần nhận thì khoản cứu trợ chẳng còn là bao.

Xem thêm: Sợ quá, đóa hồng môn

Maximilian Steinbeis: Không có cách nào tạo áp lực từ bên dưới? Người dân không khiếu nại hay sao?

Trương Thiên Phàm: Có chứ, nhưng vi phạm quá nhiều, khiến chính quyền trung ương thật sự không còn biết phải bắt đầu từ đâu. Từ cổ xưa đến nay chúng tôi đã áp dụng một hệ thống thỉnh cầu. Ai muốn khiếu nại về một việc gì oan ức do một quan chức địa phương gây ra thì thỉnh cầu lên cấp trên. Nhưng cấp trên lại là người đã bổ nhiệm chính thuộc hạ trung thành đang bị khiếu nại – vậy là ông ta sẽ miễn cưỡng, sẽ đùn đẩy sự vụ, vì giải quyết thì khác nào chỉ ra rằng ông ta đã mắc lỗi vì bổ nhiệm nhầm cán bộ. Vậy là người khiếu nại phải thỉnh cầu lên cấp trên của cấp trên, nhưng cái lô-gic vừa nói vẫn còn nguyên, thế là lại leo thêm một nấc cấp trên nữa, cứ thế mãi, đến tận trên cùng khi lên đến Bắc Kinh. Chính quyền trung ương rất bối rối, vì tất cả những người dân oan đó đều kéo nhau lên thủ đô. Họ xếp hàng vài cây số trước cửa Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương mà thực tình không có bất kỳ cơ hội nào để được giải quyết. Từ quê nhà lên được đến đó, họ phải qua bao nhiêu gian nan khổ ải và bị đối xử tàn tệ, đôi khi kinh khủng hơn bản thân cái vụ việc mà vì nó họ phải đi thỉnh cầu. Cuối cùng đều công cốc. Phí biết bao tiền bạc, thời gian, năng lượng. Tôi thấy nhiều người theo đuổi thỉnh cầu 20 năm, 30 năm ròng rã, tiêu tan cả cuộc đời. Nhưng nhiều người vẫn tiếp tục bám vào đó. Có thể gọi đó là văn hóa thỉnh cầu của chúng tôi. Họ còn biết làm gì khác trong một hệ thống như thế?

Maximilian Steinbeis: Vậy hệ thống tư pháp thì sao? Ở nước Đức cái-gì-cũng-phải-theo-luật này, chúng tôi rất tin tưởng rằng quan chức phạm luật ắt bị các thẩm phán buộc phải chịu trách nhiệm.

Trương Thiên Phàm: Đây cũng vẫn là vấn đề trung ương/ địa phương. Chúng tôi có một tòa án nhân dân tối cao cho toàn quốc. Tòa án đó không thể giám sát mọi quyết định của các tòa án địa phương. Và các thẩm phán địa phương thì lại phụ thuộc vào giới chức địa phương. Theo hiến pháp xã hội chủ nghĩa thì tòa án chịu sự “giám sát dân chủ”, tức Đại hội Đại biểu Nhân dân địa phương giám sát bộ máy tư pháp địa phương. Trong thực tế, tất nhiên Đảng quyết định tất cả, Đại hội Đại biểu Nhân dân chỉ tán thành thông qua. Các chính quyền địa phương quyết định về nhân sự lãnh đạo tòa án cũng như cấp kinh phí và nguồn lực cho tòa án. Nếu bị tòa xử thua trong một vụ kiện, chính quyền địa phương có nhiều phương tiện để chống lại. Từ đó dẫn đến tình trạng tòa án thiếu độc lập, địa phương thì tha hồ bảo hộ vây cánh và tư pháp thì thông đồng với tham nhũng. Đây quả thực là lĩnh vực cần tăng cường tập quyền. Dân chúng chấp nhận nhiều khổ ải như vậy để lên Bắc Kinh thỉnh cầu, một phần cũng vì họ không thể tin rằng quyền lợi của họ được tòa án bảo vệ.

Maximilian Steinbeis: Định hướng tập quyền hay phân quyền đòi hỏi những tiêu chí để phân biệt cấp thẩm quyền nào chịu trách nhiệm ra những quyết định nào, đó là những tiêu chí được quy định trong hiến pháp. Nhưng tôi tự hỏi, một hiến pháp theo chế độ liên bang hay không liên bang thì có gì khác nhau, nếu mọi chuyện đều phụ thuộc vào một đảng chính trị có địa vị vững chắc, độc quyền sở hữu quyền lực và có một hệ thống tổ chức chặt chẽ.

Trương Thiên Phàm: Ông nói đúng. Luật pháp ở Trung Quốc tuyệt đối là thứ yếu, nhất là luật hiến pháp. Muốn giải quyết vấn đề luật và luật hiến pháp thì trước hết phải giải quyết vấn đề chính trị. Tất cả những vấn đề đó đều có thể quy về một chỗ, là thiếu những cải cách chính trị dân chủ. Nếu người dân được quyền bầu giới chức ở địa phương thì họ nắm phương tiện buộc giới chức đó phải chịu trách nhiệm. Tuy chúng tôi có bầu cử định kỳ năm năm, nhưng vô nghĩa vì bị thao túng. Số phận của các quan chức không phụ thuộc vào kết quả bầu cử, mà do cấp trên quyết định. Không có bầu cử thực chất thì các quan chức cũng không có bổn phận gì với cử tri, mà chỉ có bổn phận với cấp trên. Trong một hệ thống như vậy, quan hệ thực sự giữa trung ương và địa phương cũng không có. Toàn bộ, chỉ có quan hệ cá nhân giữa quan trên và thuộc hạ. Phải thay đổi điều đó trước khi quan hệ trung ương/địa phương có được một ý nghĩa nào đó.

Maximilian Steinbeis: Có nghĩa là Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ phải chấp nhận và cho phép các đảng phái khác cạnh tranh với mình?

Trương Thiên Phàm: Đúng, nếu không có một hệ thống đa đảng công khai thì ít nhất phải có một sự cạnh tranh nghiêm túc trong nội bộ đảng cầm quyền. Về khía cạnh này, chúng tôi có thể học Nhật Bản và các nước châu Á khác. Châu Á có truyền thống chuyên chế có lẽ lâu đời nhất trên thế giới. Ngay cả một số nước về danh nghĩa thì dân chủ nhưng sự thực thì cũng không dân chủ lắm. Chúng tôi gần gũi với hoàn cảnh của họ hơn và có thể tiếp thu kinh nghiệm của họ. Hồi thập niên 80, cao trào của các cải cách tiến bộ ở Trung Quốc, có một thảo luận về việc tách Đảng và nhà nước. Năm 1982-1983 đã có những vận động tranh cử nghiêm túc trong cuộc bầu cử đầu tiên sau hiến pháp mới, có hiệu lực từ đó đến nay. Tận bây giờ người ta vẫn nhắc đến những sự kiện tranh cử sôi nổi trong khuôn viên Đại học Bắc Kinh, khi ứng viên các đảng khác nhau ngồi cùng một bục tranh luận. Một trong số đó, ông Lý Khắc Cường, sau này trở thành Thủ tướng. Những người khác, như Hồ Bình và Vương Quân Đào, hoạt động dân chủ và ra nước ngoài. Nhưng sau đó giới lãnh đạo Đảng thận trọng hơn và thắt chặt kiểm soát trở lại. Sau 1989, chúng tôi chứng kiến một tiến trình giật lùi trầm trọng, tới khi bầu cử thành hoàn toàn vô nghĩa.

Xem thêm: Sợ quá, đóa hồng môn

Maximilian Steinbeis: Giới lãnh đạo Đảng coi các nghiên cứu của ông là hữu ích hay là thách thức? Ông có thể bị rắc rối vì phê phán thể chế không?

Trương Thiên Phàm: Cuối năm 2011, khi tôi công bố một chương trình cải cách hiến pháp nhân kỷ niệm 100 năm cuộc cách mạng dẫn tới việc thành lập nền cộng hòa Trung Hoa đầu tiên, đề tài này ngày càng trở thành nhạy cảm hơn đối với tôi. Là một trí thức đứng trong công luận, mỗi năm tôi thường viết nhiều bài phân tích. Nhưng công bố trên báo chí ở Trung Quốc thì gần như không thể được nữa. Bốn thập niên nay, tự do ngôn luận ở Trung Quốc đã được mở rộng rất nhiều, đặc biệt với sự phát triển của internet, nhưng điều đó chỉ diễn ra trong thực tế chứ không phải như một quyền được hiến pháp đảm bảo. Bất kỳ lúc nào chính quyền cũng có thể giới hạn cái tự do ngôn luận đó nếu muốn, kể cả trên mạng. Cho đến nay không có gì ngăn được điều đó. Chẳng hạn họ có có thể lệnh cho các nhà cung cấp dịch vụ internet xóa tài khoản của bạn; như họ đã xóa blog và tài khoản của tôi trên Vi Bác khi Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa 18 diễn ra năm 2013. Tất nhiên họ cũng thể đưa bạn vào danh sách đen, tức bị cấm xuất bản, vì thực tế là tất cả các nhà xuất bản, báo và tạp chí đều thuộc nhà nước. Có tin đồn là tôi và nhiều tác giả cởi mở khác từng có tên trong danh sách đen đó. Tôi đã hỏi một số nhà xuất bản và nhận được những câu trả lời rất mâu thuẫn. Nhưng tóm lại là nhiều nhà xuất bản đã sợ và từ chối in sách của tôi, kể cả những quyển thuần túy khoa học và không đụng chạm gì đến chính trị. Xuất bản bằng tiếng Anh dễ hơn, vì họ không thể kiểm soát các nhà xuất bản ngoại quốc. Mà họ cũng không quan tâm, vì quan trọng đối với họ trước hết là tác động đối với độc giả Trung Quốc. Nhưng như vậy không nhất thiết là cá nhân họ không ưa hay không đồng ý với những điều tôi nói. Khá nhiều người “trong hệ thống” rất quan tâm đến các nghiên cứu của tôi. Về đề tài Hồng Kông chẳng hạn. Đó là một ví dụ cho thấy cái hệ thống được coi là thống nhất của đất nước khổng lồ này rốt cuộc cũng không lấy gì làm thống nhất lắm. Từ khi được Anh trao trả hai mươi năm trước, Hồng Kông đã hưởng một mức độ tự trị rất cao theo nguyên tắc “một quốc gia, hai chế độ”. Mãi những năm gần đây, chính quyền trung ương mới tìm cách vươn tầm kiểm soát sang Hồng Kông. Điều này kéo theo một tác động nghịch lý: Cách đây mười năm, người Hồng Kông chỉ muốn được tự trị; bây giờ, phản ứng lại việc bị cắt bớt tự trị và bị tước quyền bầu chính quyền đặc khu, họ đòi thêm cả độc lập. Có nghĩa là chính quyền trung ương muốn kiểm soát nhiều hơn nhưng cuối cùng sẽ được ít hơn. Vì thế tôi đề nghị một giải pháp ngược lại: ít kiểm soát hơn, cho phép tự trị nhiều hơn, và sẽ được nhiều hơn. Quan trọng là Trung Quốc giữ vững chủ quyền quốc gia ở Hồng Kông, nhưng như thế không có nghĩa là chính quyền trung ương phải vơ thêm việc quản lý thành phố đó vào mình. Đó là việc của người Hồng Kông, họ sẽ cảm ơn sự phóng khoáng của chính quyền trung ương. Những người không bị định kiến trong giới lãnh đạo rất hoan nghênh các đề nghị của tôi, nhưng không có tạp chí nào dám công bố.

Maximilian Steinbeis: Trong lịch sử, những quốc gia liên bang như Đức hay Hoa Kỳ hình thành từ các nhà nước độc lập liên kết lại. Các quốc gia đơn nhất thường phải đối phó với phân quyền và những khuynh hướng ly khai cục bộ. Trong chừng mực nào có thể đem hai mô hình này ra so sánh?

Trương Thiên Phàm: Có nhiều hình thức liên bang khác nhau, và những quốc gia đơn nhất như Vương quốc Anh hay Pháp còn khác nhau nhiều hơn. Nhưng từ góc nhìn của chúng tôi thì những sự khác nhau đó không đáng kể. Phân quyền trong một quốc gia đơn nhất khác với chế độ liên bang ở chỗ nó không được quy định hợp thức bằng hiến pháp, mà chỉ trên cơ sở luật pháp quốc gia và về nguyên tắc thì quốc hội có thể hủy bỏ bất kỳ lúc nào. Nhưng vấn đề của chúng tôi cốt lõi hơn. Không có dân chủ thì phân quyền không nhất thiết là tốt: nó có thể hàm chứa nguy cơ lạm dụng quyền lực tản quyền. Vì chính quyền địa phương không phải chịu trách nhiệm trước dân chúng địa phương, nên tình hình dễ mất kiểm soát nếu trung ương lỏng tay. Phân quyền ở mức độ tương đối đã dẫn đến một thảm họa khổng lồ, đó là nạn đói lớn cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60, hậu quả của “Đại Nhảy vọt”. Tên chính thức của nó là “Ba năm thiên tai”, nhưng sự thực đó là một thảm họa bắt nguồn từ cơ chế. Khi đó Trung Quốc thực hành một nền kinh tế kế hoạch hà khắc và chính quyền trung ương buộc nông dân phải nộp sản cho nhà nước. Thời gian này, các chính quyền địa phương được giao nhiều quyền quản lý kinh tế hơn, trong khi hệ thống chính trị tất nhiên vẫn tuyệt đối theo tôn ti trật tự. Cấp dưới do cấp trên đề bạt, nên công chức các cấp bên dưới ra sức làm vừa lòng trung ương. Sản lượng thu hoạch năm 1959 không cao bằng năm 1952, nhưng các địa phương vẫn báo cáo những con số rất lạc quan lên cấp trên, vì thế trung ương đưa ra định mức thu sản đầy hoài bão nhưng phi thực tế. Và các địa phương lại ra sức thực hiện lệnh của trung ương – thậm chí còn tìm cách vượt định mức, bất chấp việc nông dân không còn gì cho mình sau khi bị cưỡng bức nộp quá nhiều cho nhà nước. Kết quả là là hàng vạn người chết đói. Điều đó không thể xảy ra trong một hệ thống dân chủ. Nhà kinh tế Amartya Sen đã chỉ ra rằng Ấn Độ là nước rất nghèo, nhưng không bao giờ phải chứng kiến một nạn đói quy mô lớn như vậy, vì Ấn Độ theo thể chế dân chủ.

Xem thêm: Sợ quá, đóa hồng môn

Maximilian Steinbeis: Berlin, trung tâm chính trị của Đức, có đáp ứng mong đợi của ông không? Tôi rất yêu Berlin, nhưng cũng phải thừa nhận rằng khá nhiều người Đức, nhất là những người đến từ các thành phố lâu đời hơn, kiêu hãnh hơn, hay thịnh vượng hơn, như München, Köln, Frankfurt hay Hamburg, đánh giá khá là tệ về cái thủ đô nghèo xác và thường kém chức năng hoạt động này…

Trương Thiên Phàm: Nhưng đó là một điểm rất đặc trưng của thể chế liên bang, đúng không nào? Chính việc Berlin không thật giàu có và không được nhiều ưu đãi cho thấy là nền dân chủ và thể chế liên bang ở đất nước này hoạt động tốt. Bắc Kinh thì hoàn toàn khác. Hiện nay người ta đang nỗ lực đuổi hết những người nghèo đến Bắc Kinh sinh sống, những người bị gọi là “ngoại địa nhân” hay “dân công”, ra khỏi thành phố. Ở khía cạnh này cũng thế, nhìn kĩ hơn một chút thì Trung Quốc hoàn toàn không “xã hội chủ nghĩa” hay “thống nhất” gì cả. Chúng tôi có muôn vàn rào cản nhân tạo ngăn người ngoài. Rất nhiều “hàng rào định chế”. Tôi nói thực sự theo nghĩa đen đấy. Ở Berlin, nếu bạn muốn đến Đại học Humboldt thì cứ việc đến và bước vào thôi. Nhưng Đại học Bắc Kinh thì khác, có một bức tường cao bao bọc, muốn vào phải trình chứng minh thư. Chúng tôi tìm mọi cách biến Bắc Kinh thành thủ đô tuyệt vời nhất, chúng tôi tạo ra đủ kiểu đặc quyền cho nó, khiến nó tất nhiên hấp dẫn người tỉnh khác và cả nước. Nhưng để có hộ khẩu Bắc Kinh thì vô cùng khó. Một vị khách Đức nổi tiếng đã rất xác đáng khi gọi hộ khẩu là hộ chiếu, vì người ta cần hộ khẩu như một thứ giấy phép đặc biệt để nhập cảnh một quốc gia khác và hưởng vô số ưu đãi ở đó. Chỉ xin lấy một ví dụ: sinh viên có hộ khẩu Bắc Kinh dễ được nhận vào các trường đại học danh tiếng hơn, vì phần lớn các đại học đó nằm ở Bắc Kinh, mà chỉ tiêu cho mỗi tỉnh thì có hạn và chỉ tiêu cho Bắc Kinh tất nhiên cao hơn hẳn. Thi đại học ở Bắc Kinh thậm chí cũng khác ở quá nửa các tỉnh khác, và điều kiện để được nhập học đại học cũng là để bảo hộ người có hộ khẩu Bắc Kinh. Nhân tiện, đó là một phần hệ thống “duy trì ổn định” của chúng tôi đấy. Chúng tôi muốn người Bắc Kinh hoàn toàn hài lòng và không nghĩ đến phản kháng. Họ (trong đó có gia đình tôi) được một tấm vé miễn phí trong cái hệ thống bất bình đẳng và tập quyền cao độ này.

Nhưng, như tôi đã nói ban đầu, hệ thống này sẽ phải thay đổi. Trung Quốc đã chứng kiến nền cộng hòa thứ nhất (1912) và nền cộng hòa thứ hai (1949), dù đó chỉ là những chế độ ngụy cộng hòa. Nền cộng hòa thứ ba rồi sẽ đến, và đó sẽ là một nền dân chủ chân chính theo thể chế liên bang như Đức.

Nguyên bản tiếng Đức: “Die dritte – föderale – Republik China wird irgendwann kommen“, Köpfe und Ideen, Ausgabe 13, Januar 2018, Wissenschaftskolleg zu Berlin