Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

TRÍCH TT NHỮNG MẢNH RỒNG

Hoàng Minh Tường
Thứ ba ngày 7 tháng 8 năm 2018 2:52 PM



(Trích tiểu thuyết Những mảnh Rồng)
5

Như báo Phục Quốc đã rao trước trong loạt bài nhằm hạ gục Phạm Hải Hành và David Bùi về vụ lá cờ hòa hợp, hai tuần sau trên trang nhất của tờ báo này bỗng xuất hiện dòng tít đậm, chạy suốt bốn cột: “ Thái Đàm là ai? Nhân Mục là ai? Ai đã giật dây vụ cờ hoà hợp?”

Theo Linh Giác, tác giả bài báo, nhân vật Thái Đàm, người đã mua lại cửa hàng Sông Hồng của ông Tạ Văn Tư, mới chính là kẻ chủ mưu đã treo cờ đỏ và ảnh Hồ Chí Minh, dẫn tới cuộc biểu tình của 15.000 người Việt tị nạn ở quận Cam, California. Lần theo tung tích của Thái Đàm, nhà báo Linh Giác đã lột mặt nạ của Thái Đàm, buộc kẻ giả danh nạn nhân người Việt gốc Hoa bị tập đoàn Lê Duẩn xua đuổi này, hiện nguyên hình là một điệp viên cáo già của cộng sản Hà Nội.

Linh Giác viết:

“ Cái tên Thái Đàm dễ gợi cho người ta nghĩ đến một người Hoa. Thực ra Thái Đàm có gốc gác từ vùng Sơn Nam Hạ, nghe đâu tận Phủ Lý, Hà Nam, tổ tiên lên sinh sống ở phố Hàng Buồm đã năm đời. Cuối năm 1978, nhân vụ xua đuổi người Hoa do Lê Duẩn phát động, chính quyền phao lên rằng Thái Đàm chính là người Hoa và cương quyết trục xuất cả vợ con. Vợ Thái Đàm là cô giáo Bùi Thanh Hà, con chủ nhà in Tự Lực ở phố Hàng Cót, đang dạy học tại trường cấp ba Nguyễn Trãi, liền bị đuổi việc. Trong một đêm mưa gió, hai vợ chồng, hai đứa con bỏ lại toà nhà đồ sộ mặt phố Hàng Buồm từng gắn bó nhiều thế hệ, lên một cái xe tải bịt bùng chạy thục mạng ra Trà Cổ. Từ đây họ được một đường dây bí mật, thu xếp xuống một chiếc tàu đánh cá, chạy ra cửa sông Bắc Luân, rồi ngược lên phía bắc, tới Hồng Kông. Hơn năm sau, vợ chồng con cái Thái Đàm được sang tị nạn ở bang Texas, Hoa Kỳ. Cuộc ra đi này, có dáng dấp một vụ sắp đặt tinh vi, kiểu như điệp viên tình báo Vũ Ngọc Nhạ hay tình báo xuyên quốc gia Phạm Xuân Ẩn. Bằng khổ nhục kế này, Thái Đàm đã được tình báo Việt cộng không chỉ cài cắm vào nước Mỹ thù địch mà còn gài sâu vào nội tình cộng đồng người Việt tị nạn.

Ngược lại thời niên thiếu, Thái Đàm chính là bạn học chí cốt của Lương Vĩnh Nhân, tức nhà văn Nhân Mục. Nhân Mục người làng Mọc. Thái Đàm phố Hàng Buồm, cùng học với nhau ở trường Hàng Vôi, rồi trường Bưởi. Năm 1954, trước khi đi Nam, Lương Vĩnh Nhân đến ngủ nhà Thái Đàm, hai người khóc với nhau một đêm, rồi chia tay. Họ không ngờ, hơn ba chục năm sau, gặp lại nhau tại Mỹ, hai người bạn đồng tuế, đồng hương, đồng môn, dễ dàng bỏ qua những bất đồng, để trở thành những kẻ cùng hội cùng thuyền. Thái Đàm ngấm ngầm thực hiện những nhiệm vụ thượng cấp giao, lôi kéo bằng được Nhân Mục trở về với chính quyền Hà Nội. Từ một nhà văn có bố đẻ bị chính quyền cộng sản tử hình thời cải cách ruộng đất, thâm thù sâu nặng chế độ cộng sản, suốt đời trung thành chiến đấu dưới lá cờ vàng, nhiệt tình với chính thể quốc gia và nền Cộng hoà, Nhân Mục trở thành nhà văn chiêu hồi, trở cờ, viết hàng loạt bài bênh vực chính quyền Hà Nội, kêu gọi hoà hợp dân tộc trên các tờ Quê ViệtCố Hương. Để tạo địa bàn hoạt động, cắm sâu vào cộng đồng người Mỹ gốc Việt hòng chống phá quyết liệt hơn nữa, Thái Đàm kết thông gia với Nhân Mục, bán nhà ở Tesax để chuyển về quận Cam hòng chống phá người Việt từ bên trong. Về phía Nhân Mục, đây là cơ hội để Thái Đàm giúp được trở về Việt Nam thăm làng Mọc cố hương sau bao nhiêu năm xa, là dịp để bợ đỡ chính quyền Hà Nội. Mạt cưa mướp đắng một phường, Nhân Mục liền giới thiệu Thái Đàm sang tên lại ngôi nhà và tiệm cà phê Sông Hồng của ông Tạ Văn Tư. Thế rồi, ngay khi chưa bàn giao nhà và chính thức sở hữu cửa hàng, Thái Đàm, với phẩm chất mẫn cán của một điệp viên tình báo cáo già đã ngay lập tức cho treo cờ Hà Nội và ảnh lãnh tụ cộng sản…

Bị cộng đồng người Việt quận Cam phản đối, thậm chí có thể nguy hại đến tính mạng, Thái Đàm vội đánh tháo, không mua nhà và cửa hàng của ông Tư nữa. Ông ta bàn với Nhân Mục chuyển hướng hoạt động tinh vi và thâm độc hơn, bằng cách huấn luyện thế hệ thứ hai, chuyển giao nhiệm vụ chống phá sang cho Phạm Hải Hành và David Bùi. Bằng việc kết hợp hai lá cờ không đội trời chung, Thái Đàm và Nhân Mục đã thực hiện chỉ thị từ Hà Nội, nhằm bẻ gãy ý chí phục thù của cộng đồng người Việt, tiến hành diễn biến hoà bình, từng bước xoá bỏ cờ vàng và phong trào phục quốc của các chiến binh Việt Nam Cộng hoà…”

Bài báo vừa phát hành, đã như đám cháy, sôi réo khắp cộng đồng người Việt. Từ quận Cam xuống San Diego, lên San Jose, Sacramento, rồi sang Dallas, đến Houston, New Orlean, ngược lên Boston, New York… đâu đâu người Việt cũng tụ họp nhau, bàn tán, phẫn nộ. Hiệp hội sinh viên người Việt trường đại học Berkeley, nơi có truyền thống phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam từ trước năm 1975 cũng đồng thời là nơi bài cộng quyết liệt mấy chục năm nay, ra kiến nghị yêu cầu nhà trường đuổi học Phạm Hải Hành.

***

Hậu hoạ sẽ khôn lường nếu phe cờ vàng và giới truyền thông lợi dụng những thông tin này để đẩy sự việc đi quá xa. Đang mong gặp bạn, thì Thái Đàm đi xe bus của hãng Greyhound từ Dallas đến.

- Toi phải lên tiếng ngay về bài viết trên tờ Phục Quốc - Nhà văn Nhân Mục nói với bạn khi hai người vừa gíap mặt nhau - Có đúng là Linh Giác, tác giả bài báo đã hoàn toàn xuyên tạc sự thật?

Thái Đàm, người đàn ông ngoại thất tuần, nhỏ bé và hom hem trong chiếc áo pardessus dạ màu lông chuột, giọng tắc nghẹn như đang cố nuốt một củ khoai lang bở:

- Sự thật chỉ có một và duy nhất. Moi đã kể hết cho Toi nghe trong cái đêm hai đứa gặp nhau ở Houston, Toi quên rồi à?

Những giọt nước khẽ rỉ ra hai khoé mắt làm gương mặt nhà văn như chất chứa thêm nỗi thống khổ của nhiều nhân vật đoạn trường. Vẫn như ngày học ở trường Bưởi, ngoài bẩy mươi tuổi rồi mà cứ gặp nhau là mày, tao, hoặc Moi, Toi chứ không thể khác được. Cái đêm Houston mưa gió ấy cách đây đúng mười hai năm. Sau 35 năm phiêu bạt, hai thằng bạn trường Bưởi đã gặp lại nhau giữa bang Texas, cái địa danh xa ngái và đầy mê hoặc mà hai đứa từng biết đến lần đầu khi rủ nhau bỏ giờ học rồi tìm cách trốn vé để vào rạp Quảng Lạc xem phim cao bồi Mễ Tây Cơ. Lần đến Houston ấy cũng là lần đầu tiên Nhân Mục đưa Nhạn đến giới thiệu với vợ chồng bạn. “Moi tiếc rằng vợ chồng Toi không gặp được Hương Giang. Số nàng sinh ra không phải để được sống trên đất Mỹ. Nay Moi đưa Nhạn, em gái nàng đến chào thay chị cả”. Để hai người đàn bà ngủ chung giường cho dễ bề tâm sự, hai thằng bạn nối khố kéo nhau ra căn nhà thuỷ tạ bên hồ, uống hết một chai Chivas Regal 18. Một đêm trắng để giãi bày bao nhiêu nỗi thống khổ. Nhân Mục khóc nấc khi kể về cuộc chuyển tù từ Bình Phước ra Bắc. Từ Thanh Hoá lên Hà Giang, tù dời xe lửa theo đường ô tô. Xe tù bịt bùng đi trong đêm. Một đêm gió mùa đông bắc ràn rạt và rét tê tái. Đêm gió mùa sau bao nhiêu năm dài dằng dặc, tưởng như gặp lại cả một thời quá khứ, cả một sinh trường sống ngỡ như chẳng còn cơ gặp lại. Ấy là Nhân Mục cảm thấy, nghe thấy tín hiệu mùa đông xứ Bắc bằng các giác quan, trừ mắt, khi đoàn xe chở tù đi dọc con đường xuyên Việt. Quãng nửa đêm, Nhân Mục bỗng giật bắn người, cảm thấy đoàn xe đang đi qua Hà Nội. Trái tim ông đau nhói khi nhận ra ngọn gió sông Hồng bỗng lách vào trong xe, mang theo hương vị của vùng châu thổ, mùi ngai ngái của khói bếp, hương thơm thoảng của hoa cau. Dường như cái làng Mọc của ông rất gần, cái nghĩa địa cuối làng nơi thầy u ông nằm hoang liêu quá, và con sông Tô Lịch chảy qua làng đang phả lên mùi vị lầm than lam lũ của những làng ven đô. Suốt bao nhiêu năm xa đất Bắc, xa Hà Nội, ngày trở lại, quái gở thay, lại là thân phận của một thằng tù… Còn Toi, Thái Đàm, vợ chồng Toi đang có một nghề nghiệp dạy học ổn định, con cái đề huề, sống ngay giữa trung tâm buôn bán sầm uất của Hà Thành, cớ sao lại dắt díu nhau sang nước Mỹ này? Moi ư? Đời chó đểu lắm. Moi là một đứa con lạc loài. Thái Đàm uất nghẹn khi kể lại cái đận bọn khốn nạn đã vu ông là người Hoa để tìm cách đẩy ông khỏi ngôi nhà giữa phố Hàng Buồm, vốn là nhà ông bác ruột di cư vào Nam năm 1954, để lại. Toi nghĩ có khốn nạn không? Thằng Bất dạy chính trị, khi ấy đang trong bộ tứ, phụ trách thư ký công đoàn. Nó bí mật móc ngoặc với tay bí thư phường muốn cướp không ngôi nhà vợ chồng Moi đang ở. Nhân sự kiện người Hoa, nó lẻn về Lý Nhân, Hà Nam điều tra lý lịch của Moi, rồi báo cáo với bọn tổ chức, vu Moi là người gốc Hoa. Ngay lập tức cả hai vợ chồng bị đình chỉ giảng dạy. Công an, tổ dân phố, công đoàn, thanh niên, phụ nữ… rầm rập đến thúc ép, vận động. Đang đêm có kẻ tuồn qua khe cửa tờ giấy điều viết chữ Hán và chữ Việt : “ Tổ quốc đang chờ đón những người con gốc Hoa trở về”. “ Nếu không về với Tổ quốc Trung Hoa vĩ đại, sẽ bị tập đoàn Lê Duẩn tàn sát…” Cũng đang đêm, nghe thấy tiếng rơi lịch bịch trước cửa, toàn những gói phân người. Kèm theo là những tờ giấy viết chữ to: “Đồ chó gốc Hoa, con cháu của thằng Thái Phúc nhà Minh, hãy cút về nước đi, trước khi chúng ông xin tí tiết…” Bủn rủn. Run cầm cập. Thở không ra hơi. Vợ chồng con cái ôm lấy nhau, vón thành một đống, chờ qua đêm. Không còn đường nào khác, Moi thuyết phục Thanh Hà hãy đưa các con ra đi. Thanh Hà khóc lóc đòi tự tử. Phải thuyết phục gia đình nhà ngoại khuyên giải. Cuối cùng Hà cũng không nỡ bỏ Moi. Nhưng đi đâu? Về Phúc Kiến cố hương như thằng Bất bịa ra trong lý lịch? Sang Bằng Tường giáp Lạng Sơn, hay Đông Hưng bên kia Móng Cái? Không được. Về đó là vào cửa tử. Cộng sản Trung Quốc còn ác hơn cộng sản Việt Nam. Chúng sẽ đày đi các nông trang vùng Tân Cương, Nội Mông… nơi ngày xưa Tô Vũ chăn dê, Chiêu Quân cống Hồ… Phải tìm mọi cách để không phải về đại lục. Nếu đến được Hồng Kông thì coi như tìm được đất sống… Cái năm 1979 ấy, Moi ở đâu nhỉ ? Đúng rồi, Moi đang ở T43 Hà Giang. Mãi tám ngày sau khi quân Trung Quốc đánh sang biên giới, tù nhân bọn Moi mới biết. T43 là trại tù gồm toàn những sĩ quan cộm cán của quân lực Việt Nam Cộng hoà và các ký giả, văn nghệ sỹ, các nhà hoạt động xã hội mà cộng sản coi là nguy hiểm. Và thực sự họ rất nguy hiểm khi nghe tin quân Trung Quốc đang tràn qua biên giới, ở Vị Xuyên, Thanh Thuỷ, Mèo Vạc… Hầu hết các tù nhân là sỹ quan quân lực cộng hoà đều nhất tề đề nghị lãnh đạo trại cho lên biên giới chống quân xâm lược. Khu A, khu M tổ chức tuyệt thực, đòi ra mặt trận. Khu C, khu K viết đơn bằng máu… Hốt hoảng vì tù nhân có thể cướp trại, ngay trong đêm, lệnh của trên đưa xuống, toàn trại T43 phải di chuyển về Tuyên Quang... Những ngày Toi nằm tù ở Tuyên Quang, cũng là thời gian vợ chồng con cái Moi đang ở trại Hồng Kông. Chao ôi, Hồng Kông, cái thiên đường của hàng triệu người Việt lúc bấy giờ, có ai ngờ là một địa ngục trần gian. Nhan nhản những trại tị nạn được dựng vội. Người Việt gốc Hoa, người Việt miền Bắc, đông nhất là dân Đồ Sơn, Vân Đồn, Quan Lạn, Móng Cái, nhiều kẻ anh chị đã mắc vòng tù tội, nhiều kẻ bất mãn chế độ, rồi người Việt phía Nam có dính líu đến chính quyền Sài Gòn hoặc cạn đường mưu sinh… Cái trại tị nạn của vợ chồng Thái Đàm đông tới hơn ba nghìn người, có tên là trại Helynhchan, là một trại mới do Liên Hợp Quốc đầu tư, nằm trên một hòn đảo biệt lập, có hàng rào sắt bao quanh, cảnh sát canh gác như một trại tù. Lãnh đạo trại là người Anh. Khi biết vợ chồng Thái Đàm là giáo viên, họ liền mời đứng ra tổ chức các lớp học. Nhưng trại chỉ tạm yên ổn một tháng đầu, từ tháng thứ hai, các tệ nạn trấn lột, hút sách, đĩ điếm, cờ bạc, thanh toán lẫn nhau… bắt đầu phát lộ. Các băng đảng theo từng địa phương với những cái tên Vân Đồn, Đồ Sơn, Thuỷ Nguyên, Hải Phòng, Đã Nẵng, Sài Gòn… hình thành. Tệ hại nhất là các băng đảng nhỏ dần kết hợp thành hai phe phái mang màu sắc chính trị: miền Bắc và miền Nam. Những tay anh chị đao búa Hải Phòng, Thuỷ Nguyên vốn thù cộng sản không đội trời chung, nhưng thấy dân Đà Nẵng, dân Sài Gòn chửi một đứa trẻ là “oắt con cộng sản”, hay coi một đôi dép nhựa Tiền Phong, một chiếc mũ cối là đồ cộng sản, thì mắt liền vằn lên, đỏ như máu. Bọn anh chị Vũng Tàu, dân cửa biển Phan Thiết ngang nhiên cắm cờ vàng đầu giường, liền bị kẻ bí mật nào đó giật xuống, ném phân người, ném mắm tôm lên đồ đạc, chăn màn. Phe miền Bắc chửi dân miền Nam vong bản, mất gốc. Phe miền Nam chửi miền Bắc cộng sản, khát máu. Hai phe hầm hè nhau, tích tụ hận thù. Thời gian ở trại tị nạn càng dài, tín hiệu được định cư tại một nước nào đó càng mờ mịt, bức bí càng dồn nén. Cả trại ngột ngạt, căng nhức như thùng thuốc súng chờ nổ, như có cơn bão vần vụ trên đầu. Thế rồi hai phe nổ ra xung đột. Một dân đao búa Đồ Sơn bị giết, xác nhét trong nhà xí. Các phòng rùng rùng kéo đổ sập nhà, lấy thành giường, chấn song cửa làm vũ khí. Cảnh sát kéo đến hàng đại đội vây bủa, trấn các cửa, cấm mọi cá nhân ra khỏi phòng. Tiếng loa chõ vào từng giường, bằng tiếng Anh, tiếng Hoa: “ Việt Nam, đồ con lợn, lũ khốn kiếp, dân mọi rợ. Kéo nhau đi ăn xin, nhờ vả nước người ta mà còn làm loạn, chém giết nhau như bầy thú vật…” Tiếng chửi như mũi khoan xoáy vào tai Thái Đàm. Hai vợ chồng ôm nhau khóc. Dòng máu Việt đích thực chứ không phải dòng máu Hoa đang chảy trong người Thái Đàm. Hôm sau, với tư cách một nhà giáo, người đã dạy cho bao đứa trẻ trong trại thoát mù chữ, đã dạy cho bao người biết tiếng Anh để sau này có cơ kiếm sống, ông lê la đi gặp từng người, vận động họp ban liên lạc Hà Nội, rồi ban liên lạc miền Bắc có biện pháp dàn xếp với phe miền Nam, phân tích hết lẽ hết tình cho mọi người thấy hơn lúc nào hết, người Việt Nam phải thương yêu nhau. Đã sang đến đây rồi thì không còn cộng sản, cộng hoà gì hết, không còn Nam, Bắc gì hết, phải xoá bỏ thù hận, ranh giới chính trị. Phải thống nhất mục đích đấu tranh để được mau chóng đi định cư chứ không phải tự giam mình trong trại tị nạn để chém giết lẫn nhau. Cả phe miền Bắc và miền Nam cùng nhất trí xuống thang, bắt tay nhau, cùng bàn âm mưu: bỏ ăn, tuyệt thực ba ngày, đưa yêu sách đòi nhà cầm quyền Hồng Kông và Uỷ ban điều phối Liên Hợp Quốc nhanh chóng đề nghị các nước cho định cư tị nạn chính trị…

- Đó, chỉ có một sự thật như vậy, Toi biết quá rõ rồi - Thaí Đàm nhét thuốc vào tẩu, định châm lửa, lại dừng lại nhìn bạn, giọng như mếu - Sang bên này, Moi đã chứng minh, Moi là người thuần Việt, chứ không Hoa hoét gì hết. Đây, có tài liệu này mới gửi từ Việt Nam sang, ông Phạm Đăng Sinh ở Toronto vừa chuyển cho Moi. Toi đọc sẽ hiểu.

- Phạm Đăng Sinh sẽ đến đây bây giờ. Thằng Thuyền Nhân và mẹ nó đang ra sân bay đón - Nhân Mục nói và đưa tay đỡ tập sách dày bìa cứng, có tựa đề: “ Kỷ yếu hội thảo về Vương triều Mạc” từ tay ông Thái Đàm.

- Chi họ Thái ở Nghệ An và Hà Nam, Thái Bình, đều từ gốc họ Mạc, Toi thấy không? - Ông Thái Đàm lật một trang có đánh dấu sẵn - Chi họ Phạm của ông Phạm Đăng Sinh cũng có gốc từ họ Mạc. Moi và Phạm Đăng Sinh là anh em cùng một cụ tổ…

- Lẽ ra hai ông không được thông gia với nhau …

- Bọn Moi không phạm luật, vì đã qua đến mười lăm đời - Thái Đàm nói - Lát nữa ông Sinh đến, chắc sẽ mang tới những tư liệu mới. Ông ấy là đại diện Mạc tộc tại Bắc Mỹ mà…

Nhà văn Nhân Mục đầy tự tin:

- Phải công bố ngay tư liệu này để chứng minh nhà giáo Thái Đàm là một người Việt chính gốc, có vị tổ là lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, chứ không hề là một người Hoa như đã bị xuyên tạc.

- Thứ nhất, Moi muốn Toi viết một bài báo bác bỏ luận điệu của tờ Phục Quốc. Thứ hai, Moi muốn trở lại sự kiện treo cờ đỏ và ảnh Hồ Chí Minh tại quán Sông Hồng, từ đó bàn thêm về việc cháu Phạm Hải Hành và David Bùi giương cờ hoà hợp vừa rồi…

Nhà văn Nhân Mục lấy từ trên ban thờ tập sách giấy bản bìa nhựa sung và cây trâm, đặt trước mặt bạn. Đây là chủ đề chính khiến ông gọi điện mời Thái Đàm sang chơi. Nhưng rồi ông lại cuốn theo câu chuyện của bạn:

- Từ hôm thằng Thuyền Nhân nằm bệnh viện, Moi bị chứng mất ngủ. Càng nghĩ càng đau cho thân phận dân tộc mình. Đã dắt díu nhau sang đến đây rồi mà vẫn sống không yên với nhau. Từ năm 1975 đến giờ, hơn 25 năm rồi, đã đến thế hệ thứ hai, thứ ba rồi mà vẫn quẩn quanh với thù hận. Xét cho cùng, chúng ta là ai? Người hay thú? Có phải chúng ta cùng chung giống Tiên Rồng hay chỉ là hậu duệ của loài khỉ chưa đủ khả năng tiến hoá? Rõ ràng là cộng đồng người Việt ở Cali này, ở khắp nước Mỹ, cả Canada, Úcđạilợi và Tây Âu nữa, đang đi lạc đường. Hành động chống cộng của họ đang bị dẫn dắt bởi lòng hận thù mù quáng chứ không phải bởi sự thôi thúc của lòng yêu nước…

- Họ sẽ nói: Còn đâu nước mà yêu… - Thái Đàm bập một hơi thuốc, nhả ra những sợi khói vô vọng.

- Nguy hiểm là ở chỗ đó. Sự hận thù đã làm hết thẩy chúng ta mù quáng, mất khả năng nhận đường. Hầu như tất cả các tờ báo của người Việt hải ngoại đều chung một ý thức hệ chống cộng đến cùng. Ai viết khác, nghĩ khác sẽ bị ném đá, sẽ bị cô lập, bị loại trừ khỏi cộng đồng.

- Và báo chí cộng sản cũng vậy. Đã sang thiên niên kỷ mới rồi, 25 năm trôi qua rồi mà ngày nào báo đài Hà Nội cũng ra rả giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Họ giải phóng miền Nam khỏi ai? Có phải người Mỹ xâm lược Việt Nam không? Người Mỹ đã chiếm một thước đất nào của miền Nam làm lãnh thổ của họ chưa? Năm nào cũng vậy, cứ dịp 30 tháng Tư là tràn ngập sắc máu. Đến nỗi ông Võ Văn Kiệt, một lãnh tụ cộng sản cánh tả phải ngán ngẩm thốt lên: Ngày này có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn…

- Đó là căn bệnh điên khùng cộng sản. Nhưng, tiên trách kỷ hậu trách nhân. Moi muốn chúng ta hãy nhìn nhận người Việt tị nạn một cách khách quan. Hãy cho rằng trong cuộc nội chiến này chúng ta thất bại, chúng ta phải lưu vong.

- Moi không nghĩ đây là một cuộc nội chiến - Thái Đàm gạt tay - Hiệp định Giơneve đã chia vĩ tuyến 17 làm ranh giới hai miền. Phải tìm mọi cách để tổng tuyển cử thống nhất hai miền, chứ không thể kéo quân miền Bắc vào chiếm miền Nam. Thực chất đây là cuộc chiến ý thức hệ. Miền Bắc muốn dùng vũ lực để áp đặt ý thức hệ cộng sản lên cả nước. Và tất nhiên Việt Nam Cộng Hoà phải nhờ người Mỹ ngăn chặn làn sóng đỏ…

- Chúng ta sẽ bàn về tính chất của cuộc chiến tranh vào một dịp khác. Nhưng sẽ rất sai lầm khi người Việt tị nạn nghĩ rằng đất nước Việt Nam, tổ quốc Việt Nam của họ đã mất. Chỉ khi nào giành lại được nước, cắm được lá cờ vàng tại dinh Độc Lập, họ mới hoàn thành cuộc thánh chiến trở về. Họ, trong đó có Moi Toi, cho rằng nước Việt Nam hiện giờ là của cộng sản. Thế thì còn nơi nào để yêu, để thương nhớ, để hướng về và chung tay xây dựng? Một luận điểm vô cùng nguy hiểm, có thể nói là phản động. Nó chỉ thích hợp với những bộ óc điên cuồng, liều lĩnh, lúc nào cũng muốn tổ chức những nhóm người trở về làm cuộc lật đổ. Tại sao chúng ta không hiểu khác đi: Dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam là trường tồn, là Tổ quốc thiêng liêng của tất cả người Việt trong nước và người Việt hải ngoại, là non sông gấm vóc gồm đất liền và hải đảo đã được minh định trên bản đồ, là trầm tích hàng nghìn năm văn hiến, là bề dày văn hoá, không gian sinh tồn của người Việt suốt chiều dài lịch sử. Non sông gấm vóc ấy tạm thời đang biến thành của riêng của một đảng, bị điều hành, dẫn dắt bởi thể chế cộng sản, một thể chế lỗi thời, đang cản trở bước tiến của đất nước và sự hoà nhập với thế giới hiện đại. Thể chế độc tài, độc đảng ấy, đang đẩy đất nước vào tham nhũng, mất dân chủ, văn hoá đạo đức suy đồi, kinh tế tụt hậu… Moi biết, gần 90 triệu người Việt trong nước đang ngột ngạt dưới chính thể cộng sản. Người Việt hải ngoại chúng ta phải có trách nhiệm chung tay cùng với người dân trong nước đòi nhà cầm quyền Việt Nam, đảng Cộng sản Việt Nam phải trả lại một nước Việt thực sự độc lập, tự do, dân chủ …

Càng nói Nhân Mục càng như người lên đồng. Ông nhìn bạn như nhìn một đám đông cử toạ và thấy mình đang thăng hoa trong một cảm hứng bất tận.

- Đó, chính Moi cũng nghĩ như vậy. Và đó cũng là cách mà Moi đã bày cho ông Tư. Tức là phải làm cho người Việt ở quận Cam này coi Việt Nam hiện nay, dù đang trong ách cai trị của đảng cộng sản, vẫn là đất nước của toàn thể người Việt. Và không thể nào khác, lá cờ đỏ là cờ chính danh của nước Việt hiện đại, cũng như ông Hồ Chí Minh, dù chết đã lâu, vẫn là người số Một xứng đáng đứng dưới lá cờ đó. Người Việt hải ngoại chúng ta cần phải tôn trọng và lựa chọn một ngọn cờ để tập hợp. Không thể dựng lại lá cờ vàng. Dù cờ vàng quẻ ly của triều đình nhà Nguyễn hay cờ vàng của nền Cộng hoà đều đã là lá cờ của quá khứ, nếu trân trọng hơn thì đó là lá cờ di sản…

- Ý tưởng tốt đẹp của Toi suýt làm ông Tạ Văn Tư mất mạng, vì Toi chưa chuẩn bị cho đám đông đón nhận nó… - Nhà văn Nhân Mục nghẹo đầu vẻ chế giễu - Aristote nói rằng, “Con người là một sinh vật chính trị”. Người Việt ở quận Cam này chống Cộng theo bản năng. Còn Albert Einstein thì nói rằng: “Chỉ có hai điều là vô hạn: Vũ trụ và sự ngu xuẩn của con người… Toi mexừ đã không hiểu điều thứ hai mà Einstein nói, vì thế suýt lãnh đủ. May mà Toi vẫn chưa chuyển nhà từ Dallats về đây.

- Cho nên Moi đến đây, trước hết để vinh danh Phạm Hải Hành và David Bùi. Đó thực sự là hai người anh hùng. Họ đã tiếp nối được ý tưởng của Moi và Tạ Văn Tư, nhưng sáng tạo, uyển chuyển và kỳ vỹ hơn nhiều. Hai lá cờ hoà hợp của hai chàng trai trẻ là hai phương án rất đáng suy ngẫm, sẽ là lối mở cho người Việt hải ngoại chúng ta, cho cả nước Việt chúng ta xoá bỏ hận thù, xoá bỏ chủ nghĩa cộng sản, cùng chung xây một nước Việt Nam mới…

- Và điều thứ hai mới là lý do chính để Moi mời Toi đến đây - Nhân Mục đưa hai ngón tay lên - Đó là Toi phải đến toà soạn báo Phục Quốc để kiện về bài báo vu khống vừa rồi.

Có chuông điện thoại. Nhà văn Nhân Mục nhìn đồng hồ, lắng nghe. Tiếng bà Nhạn dịu dàng trong máy:

- Anh à? Máy bay xuống chậm mười phút. Con đang ở chỗ gửi xe. Khi nào gặp bác Sinh, em sẽ báo. Anh cứ tiếp chuyện bác Đàm. Em đã chuẩn bị đồ ăn rồi. Con Việt Yến rủ cả Đoan Diễm đến…

- Cả David Bùi nữa chứ?

- Vâng. Làm sao Thuyền Nhân nhà mình lại dời “tình nhân” của nó được…

Cuộc hội ngộ sắp tới khiến nhà văn như trẻ lại. Ông phấn chấn:

- Thằng Thuyền Nhân và mẹ nó vẫn đang đợi người anh em chúng ta ở sân bay. Chúng ta sắp có một cuộc gặp tưng bừng giữa các thế hệ, giữa trong nước và hải ngoại, ngay tại đây. Trong khi chờ cuộc vui đó, Moi muốn cho Toi thưởng lãm một báu vật mà dù trí tưởng tượng của Toi là vô cùng siêu việt, thì Toi cũng không thể tin là Moi chứ không phải ai khác chính là người đang sở hữu bảo bối độc nhất vô nhị này. Và, sau đó tại hạ xin được nhà Hán học uyên thâm chỉ giáo đôi điều…

Thắp ba nén nhang, nhà văn Nhân Mục lầm rầm khấn vái trước ban thờ, rồi, hai tay nâng cuốn sách cổ, trên đó có chiếc trâm gỗ, ông bước tới trước mặt bạn, làm một cử chỉ cung kính gần như nghi lễ.

Ông Thái Đàm không tin ở mắt mình. Có cảm giác như ông vừa có cuộc trở về cố hương sau bao nhiêu năm xa. Nhoà nhạt trước mắt ông là những phố cổ Hà Nội rêu mốc đến hoang liêu. Một ngôi từ đường xây cất từ thời Trần thời Lê nằm nép sâu trong ngõ gạch. Những cây đại già cóc cáy khô cằn vẫn trổ ra những búp xanh, những cánh hoa trắng muốt thơm tinh khiết và dịu nhẹ. Tiếng giọt mưa tí tách rơi trước thềm khiến con tắc kè nào đó bỗng thốt lên tiếng kêu thảng thốt rồi biến mất sau những tấm gỗ chạm khắc đầy mê hoặc. Rồi mùi hương trầm quyện hương hoa mộc lan thơm như từ cõi xưa. Một chiếc lá muỗm rơi từ cao tít, xoáy trong không rồi chạm vào tóc, vào vai áo, như có ai vỗ về…

- Cây trâm cổ. Không dưới bốn trăm năm - Ông Thái Đàm giương mục kỉnh chăm chú hồi lâu - Chữ PHỦ thì quá rõ. Phủ trong Đỗ Phủ, nhà thơ đời Đường. Còn chữ gì phía trước thì chưa đoán được. Mờ quá. Có ba nét phẩy trên một nét ngang… Phần dưới có thể là chữ Vương...

- Có thể là Biệt Phủ chăng? - Ông Nhân Mục gợi ý.

- Không phải. Chữ biệt không có bộ này. Toi để Moi nghĩ thêm. Rõ ràng đây là cây trâm thuộc một gia đình quyền quí. Chỉ một đại quan của triều đình mới có phủ đệ riêng.

- Có thể là một phủ đệ của chúa Nguyễn ở đàng trong, hay của một thân vương nào đó thời Nguyễn…?

Ông Thái Đàm chưa vội trả lời câu hỏi của bạn, ông lật dở cuốn sách cổ. Nửa đầu cuốn sách bị thời gian, bị nước biển huỷ hoại gần hết, không đọc nổi một trang. Phần sau, một vài trang có thể đoán qua được.

- Một cuốn tộc phả của họ Phạm thì đã rõ - Ông Thái Đàm khảng định - Phần sau viết về hậu duệ tằng tổ khảo, tên Phạm Trọng Bàng, bị phạm trọng tội với triều đình, giáng thứ dân, về lập nghiệp tại gò Cây Dầu, trấn Quảng Nghĩa từ đời vua Minh Mạng…

- Là bộ tướng tâm phúc của Hữu quân Nguyễn Văn Thành hay Tả quân Lê Văn Duyệt? - Nhà văn Nhân Mục buông một câu hỏi.

- Đây sẽ là một tồn nghi mà MoiToi cần phải giải mã cuốn tộc phả này. Nhiệm vụ của chúng ta là phải đọc được những dòng chữ đã mất của cuốn tộc phả, để tìm đến nguồn cội. Moi đồ rằng, thuỷ tổ dòng họ Phạm này rất có thể là một thuộc hạ của Đoan Quận công Nguyễn Hoàng, từ Bắc Hà vào mở cõi từ năm 1558.

- Một nhiệm vụ rất có thể bất khả thi, vì từ thời điểm đó đến thằng Thuyền Nhân là cả năm thế kỷ, một con đường dài dặc và khốc liệt của người Việt.

- Đây là tộc phả của thằng Phạm Hải Hành sao? - Thái Đàm sững người, nhìn Nhân Mục, chờ câu trả lời.

Nhà văn Nhân Mục dẫn bạn xuống khu nhà kho ở góc vườn. Ông kể lại câu chuyện vượt biển khủng khiếp của cặp vợ chồng Phạm Hoài Bắc - Dương Thị Nhạn và số phận khác thường của thằng Thuyền Nhân, cũng như cuộc se duyên kì lạ của người vợ quá cố cho vợ chồng ông bây giờ.

- Cuốn tộc phả và cây trâm này suýt nữa sẽ rơi vào quên lãng, hoặc vĩnh viễn câm lặng nếu không có sự cố thằng Thuyền Nhân bị trọng thương phải vào viện vừa rồi. Và bây giờ, Toi đang cầm trên tay cuốn tộc phả của thằng Thuyền Nhân Phạm Hải Hành đó. Nhàn đã nhận từ chính tay bà nội Thuyền Nhân trước ngày vượt biên. Toi có đọc thấy dòng chữ này không ? - Nhà văn Nhân Mục lật dở một trang cuối, tìm dòng chữ mà ông đã đánh dấu, được ghi bằng chữ quốc ngữ chen giữa những dòng chữ nho - Đây, Toi đọc đi.

Một giọt nước lăn qua gọng kính, rơi trên trang sách. Giọt nước mắt của Thái Đàm. Ông đã nhận ra dòng chữ màu mực tím nhoè mờ: “ Phải đi thật xa mới mong giữ được dòng tộc”.

Đợi bạn trấn tĩnh, Nhân Mục rót hai ly rượu, một ly đưa cho Thái Đàm, giọng nghẹn ngào vì chính ông cũng không kìm nén nổi:

- Toi hãy cố hình dung về những cuộc ra đi của tổ tiên chúng ta. Những người Việt của châu thổ sông Hồng lặng lẽ từ Thăng Long ra đi. Mười người đi, chỉ còn một. Trăm gia đình đi chỉ còn một phần… Họ đến Ái Tử, Cam Lộ của châu Ô, châu Rí rồi vào Thuận Quảng, Qui Nhơn, Tháp Chàm… Hơn trăm năm sau mới khai khẩn xong, trấn trị xong vùng châu thổ Cửu Long. Họ bồi đắp dần Mũi Cà Mau bằng những cánh rừng đước, rừng tràm…

- Nhạc sỹ Phạm Duy thật kỳ tài khi chỉ bằng một giai điệu đã dựng được cả một chặng đường mở nước - Thái Đàm bỗng nhẩm hát - “ Tấm áo nâu, rướn mình đi từ chốn rừng sâu. Dắt dìu nhau vào tới Cà Mau… Áo ơi…”

Thái Đàm nén một tiếng ho, mắt nhòa lệ, cụng ly với bạn rồi ngửa cổ dốc cạn ly rượu.

- Và bây giờ, họ bị văng khỏi quê hương, bị đẩy qua Thái Bình Dương mênh mông để phiêu dạt đến nước Mỹ…

Mắt hai người bạn nhạt nhòa. Họ như đang cùng uống nước mắt nhau.



6

Vũ Bảo Huy chưa muốn dời nước Mỹ. Sáu tháng trôi vèo đi, ngỡ như anh vừa mới sang đây tuần trước, hôm qua, hôm kia. Một nước Mỹ hoàn toàn không như người ta nhồi nhét vào đầu anh, như anh tưởng, như anh nghĩ,… đã cuốn hút anh, khiến anh say mê khám phá. Huy đã đến khu nhà thiếu tiện nghi của những người da màu ở Harlem, New York, đã đến chia sẻ với những người vô gia cư dọc đoạn sông Santa Ana từ Freeway 57 đến W.17th St, đã tha thẩn hàng giờ đầy buồn bã giữa People Park, ở thành phố đại học Berkeley, California, nơi khởi nguồn của những cuộc xuống đường với bạt ngàn băng rôn, khẩu hiệu, cờ đỏ của hàng ngàn sinh viên, hàng vạn người ủng hộ Việt Nam, phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ…, nay trở thành nơi tụ tập của người ăn xin và vô gia cư khắp nơi dồn về; đã gặp không ít những người xin ăn, những kẻ nghiện hút, những ả gái điếm vật vờ trong phố tối đèn đỏ, những vụ sả súng điên cuồng vào trường học… Nước Mỹ vẫn còn nhiều mảng tối. Nhưng đó không phải là tội lỗi của nước Mỹ, mà đó là bản chất của cuộc sống. Một nước Mỹ ngày càng khiến anh kinh ngạc trước sự hùng vĩ, hào phóng của sông núi, đất đai, trước sự rộng mở và lòng nhân ái, tình đồng loại và sự nghĩa hiệp, khát vọng tự do và cơ chế hoàn thiện quyền năng Người. Chỉ riêng bang California, bang tập trung gần hai triệu người Việt, có khí hậu, thổ nhưỡng, sinh cảnh gần như nước Việt, diện tích gấp rưỡi nước Việt, dân số bằng một phần ba nước Việt, nhưng mênh mông, phì nhiêu, đa dạng, thuận lợi hơn nhiều lần nước Việt. Trời đất đã cho những kẻ tha hương một chốn nương thân lý tưởng, hơn cả nơi họ đã sinh ra. Người Việt đến đây hầu như không quá khó khăn để thích nghi với thời tiết khí hậu, ngược lại hai mùa nóng lạnh hài hòa, không đến mức khắc nghiệt. Ấy là chưa kể vùng bồn địa mênh mông chạy từ San Francisco, San Jose xuống Los Angeles suốt mấy trăm mile, rộng hàng mấy chục mile, là kho lương thực thực phẩm của toàn nước Mỹ. Ấy là chưa kể đến hệ thống giao thông hiện đại dày đặc đến từng thị tứ, trang trại. Ấy là chưa kể đến nền hành pháp hoàn hảo, nền giáo dục y tế trên cả tầm mơ ước… Sáu tháng Huy đã gửi về toà soạn bốn feuilleton, hai mươi tin bài và nhiều ảnh phóng sự. Và nữa, hai truyện ngắn cho tờ Văn Chương, được in trang trọng ở trang Giới thiệu tác giả. Một sức viết đến chính Huy cũng phải ngạc nhiên. Cuộc sống nơi đây như tuôn chảy qua ngòi bút anh, đặc biệt là những chuyển động của cộng đồng người Việt. Nếu thế hệ người Việt sau năm 1975, thế hệ thứ nhất, với tất cả nỗi hận thù của phía bại trận, nỗi thống khổ của kẻ lưu vong, sự cùng cực của những thuyền nhân tị nạn…, từng trải qua những năm tháng vật vã để mưu sinh và hoà nhập xứ người, thì đến thế hệ thứ hai, thứ ba, gần hai triệu người Mỹ gốc Việt đã thực sự trở thành một phần của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, đã không hổ thẹn mà nói rằng con Rồng nước Việt từ bờ tây Thái Bình Dương đã phung phí văng ra những mảnh rồng, thậm chí những cục phân rồng, và ở bờ đông đại dương mênh mông kia, những mảnh rồng ấy đã bám trụ, đã hồi sinh, những con Rồng cháu Tiên đang sinh sôi, phát triển…

Chưa bao giờ Huy thăng hoa và tràn đầy sinh lực như hôm nay. Chẳng bù cho năm ngoái, trước khi đi Mỹ, rặn mãi mỗi tháng cũng chỉ được một bài và mấy tin vụn, vừa đủ chỉ tiêu. Hoá ra, khi đời sống nhạt hoét, giả chân lẫn lộn, khi tâm hồn chai sạn, lòng tin bị lừa gạt… thì ngòi bút còn nặng hơn cả lưỡi cày.

Huy chưa muốn dời nước Mỹ vì lẽ gì? Thời hạn của dự án tìm hiểu nước Mỹ do Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ cho các nhà báo Việt Nam đã hết. Thằng Kao Đăng cùng làm báo Việt Trẻ với anh vừa gửi email sang: Mày về chậm, dù chỉ một tuần cũng phải buộc thôi việc. Bốn feuilleton của mày, ban thư ký vứt sọt rác. Tổng biên tập tuyên bố trước cuộc họp vừa rồi: Văn chương Vũ Bảo Huy hồi này sặc mùi bơ thừa sữa cặn. Liệu mà tính, theo tao, hãy làm như Tôn Tẫn, “tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách”. Vậy là đã rõ. Kao Đăng đã bóng gió viện đến binh pháp Tôn Tử nước Tàu, ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn. Chuồn đi đâu? Tất nhiên là không đi đâu cả, mà tìm cách ở lại Mỹ. Bên nhà vẫn cho người theo dõi Huy từng bước. Và tất nhiên, bên nhà tức là bên này. Mỗi động thái của Huy trên đất Mỹ, đều không qua nổi màng lưới công an dày đặc như thiên la địa võng.

Suốt trên chuyến bay từ Washington DC về San Francisco, lòng Huy trĩu nặng. Anh tưởng như đây là chuyến bay cuối cùng anh được về với Mỹ Hằng. Chín ngày nữa, anh sẽ từ giã nàng. Vé máy bay về Tân Sơn Nhất, là vé khứ hồi, và anh đã định sẵn lịch trình.

Bây giờ thì Huy phải thú nhận: Anh không muốn dời nước Mỹ chính là vì Hằng. Sáu tháng qua, Mỹ Hằng, chứ không phải nước Mỹ đã cho anh sống những ngày thần tiên. Phải mất gần sáu giờ trên máy bay để vật vã trăn trở và phải là chuyến bay cuối cùng khi sắp dời nước Mỹ, Huy mới thú nhận với lòng mình cái điều mà lâu nay anh cứ tìm mọi cách lảng tránh ấy. Với anh, Hằng chính là nước Mỹ.

Có trớ trêu không, cái mối tình của Huy?

Thoạt đầu là sự thờ ơ, thậm chí lạnh lùng khi Huy gặp Mỹ Hằng trong buổi anh giới thiệu tập phóng sự “Từ Bayon bốn mặt đến cuộc đời muôn mặt”. Huy vốn không mấy cảm tình với các nữ doanh nhân nói chung, và đặc biệt là các Việt kiều Mỹ. Hình như họ đều có chung mẫu số là sự kiêu căng và hợm của. Có một lý do của sự ghẻ lạnh ấy: Huy vừa trải qua những ngày căng thẳng trong cuộc sống gia đình. Anh sống ly thân với Thuỳ đã hai năm nay, nhưng anh không có nhu cầu kết thân với phụ nữ. Cuộc sống hôn nhân chẳng khác nào cõi địa ngục. Anh chán ghét hết thảy, cả gia đình, cả cơ quan và công việc mà mới một năm trước đó anh còn đam mê cháy bỏng. “Tập phóng sự này là chắt lọc mười lăm năm làm báo. Không biết sau đây tôi còn viết được nữa không - Huy nói với bạn đọc của mình - Một người lính, khi cố thoát ra khỏi sự huyễn hoặc ma quái của những nụ cười đá thì dường như buông tay bất lực trước cuộc đời muôn mặt. Anh ta luôn trong trạng thái đối diện với những nụ cười hoá thạch…” Hình như Mỹ Hằng là người có linh cảm đặc biệt. Chị như thấu thị được ánh mắt Huy. Ánh mắt quá mệt mỏi và hoang hoải, bất định, mà chỉ có ở những người đang khủng hoảng niềm tin, đang chán sống, đang hoài nghi tất cả. Chị không những đã đọc được tâm trạng của anh mà còn buộc anh phải thổ lộ, giãi bày. Và những chuyến đi tìm hiểu môi trường đầu tư của đoàn doanh nhân Hoa Kỳ mà Huy trong tốp nhà báo được mời đi cùng, đã kéo họ xích lại gần nhau.

Cho đến chuyến đi cuối cùng trước khi Hằng về Mỹ, là chuyến đi riêng giữa hai người. Mỹ Hằng muốn chính Huy, chỉ riêng Huy, đưa chị từ làng quê Cảnh Dương của chị, ngược sông Gianh, rẽ sông Son, vào động Phong Nha. Con thuyền du lịch lắp động cơ nhưng êm ru ngược dòng sông đẹp như cổ tích. Hiếm có dòng sông nào thơ mộng như sông Gianh. “Nước Mỹ không có những cảnh nên thơ như thế này - Hằng chỉ những vạt ngô mướt xanh, những mảng lúa hoe vàng trườn từ mép nước tới dải núi đá thấp thoáng hoa gạo đỏ, trầm trồ - Anh Huy biết không, Hằng là người quê gốc Quảng Bình mà bây chừ mới được về với con sông quê đó”. “Nhưng Hằng có biết, dưới lòng con sông Gianh là bao nhiêu lớp xương người trầm tích…?” Và Huy, như một thầy giáo dạy sử, đã kể cho Hằng nghe về những cuộc chiến đẫm máu suốt gần hai thế kỷ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, về những năm tháng thời kỳ Cần Vương khi vua Hàm Nghi đưa bầu đoàn thê tử và quan quân triều đình từ Huế ra đây lập phòng tuyến chống Pháp, về những trận bắn phá ác liệt Quảng Bình của không quân và hải quân Mỹ mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Và có điều này, hình như là cơ duyên xui khiến: Lần đầu tiên Huy kể với Hằng về người cha của mình.

- Hằng biết không, chính trên dòng sông này, cha Huy đã bước vào cuộc đời chiến sỹ. Nghe đồng đội của cha kể lại, thì đó là một chiến công anh hùng. Cha đã dám đánh Mỹ, dám hiên ngang đối đầu với cả đội quân Mỹ với vũ khí tối tân hiện đại nhất thời bấy giờ. Cuộc chiến đấu diễn ra ban đêm và nhanh đến mức không ai kịp ghi lại. Đó là một ngày hạm đội Mỹ phong toả ngoài khơi, máy bay từ hạm đội quần đảo tìm diệt trên bờ. Thuỷ lôi Mỹ thả dày đặc cửa sông, ngăn chặn mọi phương tiện, trong đó có con phà mà đơn vị cha quản lý. Hôm ấy là ngày thứ ba mạ từ ngoài quê vào thăm cha. Chập tối có người bạn trên Lệ Sơn gửi cho cha một con cá vược lớn, loại cá đặc sản sông Gianh để làm bữa liên hoan tiễn mạ. Nửa đêm có xe quân sự ra bắc, cha sẽ gửi mạ về quê Hà Tĩnh. Tiễn mạ đi rồi, bỗng có người đến thì thào. Và cha vội vã ra chỗ giấu tàu. Chi bộ tổ chức kết nạp Đảng và làm lễ truy điệu sống cho cha và hai người nữa ngay trên sạp tàu. Con tàu kéo theo hệ thống rà phá thuỷ lôi lao ra cửa biển. Chỉ nửa tiếng sau, tàu lọt giữa trận địa thuỷ lôi dày đặc. Một tiếng nổ lớn và một cột lửa vụt lên từ cửa sông, nhấn chìm tất cả…

Câu chuyện sẽ còn tiếp tục nếu Hằng không khóc nhiều đến thế… “Thôi Huy, đừng kể nữa… Hằng sợ…”

Nhưng đó mới là khúc mở đầu của cuộc đời Huy. Một cuộc đời đầy éo le, trắc trở mà những nhà tiểu thuyết tài ba, với trí tưởng tượng phong phú nhất cũng không bịa ra nổi. Sau này, phần tiếp của câu chuyện, Mỹ Hằng đã được nghe Huy kể trong căn phòng 35.000 USD một đêm ở giữa trái tim nước Mỹ. Lúc ấy, Hằng để mặc cho nước mắt mình chảy tràn khuôn ngực trần của Huy. Nàng muốn tưới cho trái tim anh dịu lại.

- Câu chuyện về cái chết của những người anh hùng vô danh ấy, mãi sau này, tức là cách đây ba năm, mới được một người đồng ngũ của cha Huy quê ở Hậu Lộc kể lại cho một nhà báo. Cả đơn vị thanh niên xung phong bảo đảm giao thông đường sông của cha năm ấy đã bị xoá sổ. Những người từng sống và công tác ở bến phà Gianh, hoặc đã chết, hoặc tản mác về quê quán, hưu trí ở các nơi. Vả lại, buổi kết nạp và truy điệu ấy, diễn ra trong đêm, vẻn vẹn nửa giờ, chỉ với vài ba người…

- Quả là một hy sinh cao cả vì lý tưởng…

- Lý tưởng ư? - Huy bỗng nhếch môi giễu cợt - Sau này người ta cứ gán hào quang anh hùng cho những cái chết như thế, chứ khi ấy cha còn biết chọn con đường nào khác? Ông bà nội Huy thuộc thành phần địa chủ. Cha học xong lớp 10 không được đi đại học, thậm chí một trường trung cấp cũng không thể. Ở nhà làm xã viên hợp tác xã công điểm một ngày vài lạng thóc, không đủ sống. Vả lại trai làng đi hết, ở lại vừa lạc lõng, vừa hèn hạ, không dám ngẩng đầu nhìn ai. Để bớt một miệng ăn cho gia đình, để tránh những cái nhìn thương hại, khinh bỉ, chỉ còn cách xung phong đi bộ đội. Con trai nông thôn miền Bắc khi ấy chỉ còn cách đổi đời, cứu vớt danh dự, thoát khỏi cảnh tù túng, quẩn quanh… là đi bộ đội. “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” là cảm hứng thật của nhà thơ Phạm Tiến Duật khi ông chứng kiến cảnh những đoàn quân trùng trùng ra trận. Họ đi vào chỗ chết mà như đi trẩy hội. Bởi khi đó cả nước chỗ nào chẳng bom đạn, chẳng là chỗ chết? Đi chiến trường là hội chứng lên đồng tập thể, là cảm hứng say máu của đám đông. Huống chi, cha Huy còn có trách nhiệm với cả gia đình, cả dòng họ, là phải viết lại bản lý lịch quá đen do bậc sinh thành để lại. Chết xanh cỏ, sống đỏ ngực. Cha tự thề như thế và viết đơn bằng máu xin được ra mặt trận... Nhưng với cái lý lịch xám xịt, việc đi bộ đội cũng không dễ dàng. Nhờ có tài bơi lội, nên cha mới được biên chế vào một đơn vị thanh niên xung phong bảo vệ đường thuỷ ở cửa sông Gianh…

- Còn mẹ? Sau cái đêm chia tay với cha ở bến phà?

- Ba ngày vào thăm cha ở sông Gianh ấy, chính là thời gian mạ hoài thai Huy. Khi mạ mang thai hai tháng thì có giấy báo tử cha Huy. Mạ giấu mình đã có thai, buồn chán bỏ quê chồng về nhà mẹ đẻ trên thượng nguồn sông Ngàn Sâu. Rồi mạ cũng phải mang cái bụng chửa về nhà. Không ai tin mạ có thai với cha. Cái tin mạ chửa hoang lan nhanh như gió mùa đông bắc. Bà nội và các anh chị, chú bác cấm cửa. Mạ đành phải về quê ngoại sinh con. Vì quá đau buồn lại trong hoàn cảnh khó khăn, mạ đẻ Huy khi chưa đầy tám tháng. Bà nội và các chú bác liền làm một phép tính. Vậy là rõ rồi. Tội chửa hoang càng không thể thanh minh. Năm ấy mạ mới hai mươi tuổi, cái tuổi đẹp nhất của đời con gái. Ba năm sau, có một đơn vị bộ đội từ ngoài Bắc đến đóng quân ở làng. Một đêm, mạ gửi Huy cho bà ngoại, đi theo đoàn quân ấy vượt Trường Sơn…

Mỹ Hằng tưới đẫm nước mắt lên mặt, lên ngực Huy. Khóc bao nhiêu cho đủ để khoả lấp, xoa dịu cho Huy những đau khổ đầu đời? Kỳ lạ, sao với Huy, Hằng lại mau nước mắt đến thế. Từng sống với hai người chồng, ngài thượng nghị sỹ John Whanscoth và tỷ phú Acthur Nicolai Akharov, nhưng ngay cả phải chia tay vĩnh viễn với họ, Hằng cũng rất dè sẻn nước mắt. Không dám tự thú, vì quá tàn nhẫn, nhưng trong đáy trái tim, Hằng biết, hai cuộc hôn nhân ấy là những giải pháp tình thế của cuộc đời nàng. Còn có thể làm gì khác ở Đà Nẵng trong những năm chiến tranh ấy, với một nữ sinh yếu đuối như nàng? Không rơi vào tay một trong hai chàng sỹ quan hải quân trẻ ngông cuồng và bất cần đời từng si mê nàng như muốn thoả mãn một thú chơi, như tấn thảm kịch trong câu thơ của Nguyễn Bắc Sơn: “Mai ta đụng trận ta còn sống/ Về ghé sông Mao phá phách chơi/ Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm/ Đốt tiền mua vội một ngày vui…”, thì cũng trở thành gái bao của một quán bar, hay thê thảm hơn, sẽ sớm trở thành một chinh phụ chờ chồng, một nàng vọng phu hoá đá…

Nhưng với Huy thì khác, hoàn toàn khác. Hằng đã bị quyến rũ ngay từ cái buổi nghe Huy giới thiệu tập phóng sự của anh. Một sức hút bởi vẻ đẹp trí tuệ, một thiên tư bẩm sinh và một thế giới nội tâm phong phú, một nhãn quan độc lập, khác hẳn những người đàn ông mà Hằng đã gặp. Những con chữ của Huy không sáo mòn, hời hợt, nhạt hoét và giả dối như nhan nhản trên những trang sách thường gặp, mà nó luôn cựa quậy, sống động như chính đời sống, nó chân thật và không hề cơ hội, xu nịnh, nó giúp người đọc nhìn thấu những vấn đề cốt lõi của kiếp người, lật ngược thực tại, làm ta đôi khi phải gấp sách lại, tự vấn, tranh biện với ai đó… Những trang sách của Huy, những cuộc trò chuyện với Huy, ngay cả khi anh im lặng, mắt hoang hoải một nỗi buồn, một sự hoài nghi, cũng giúp Hằng hiểu thêm rất nhiều về lịch sử và truyền thống văn hoá, về những miền quê vốn là đất nước mình mà hầu như xa lạ.

- Anh còn nhớ cái lần chúng mình đi thuyền ngược sông Gianh không?

- Hằng cũng khóc nhè như đêm nay, ngay giữa trái tim nước Mỹ này. Em khóc cho đến khi thuyền vào cửa động Phong Nha…

- Vào chốn động tiên mà em chẳng còn tâm trí nào để hưởng thụ thiên nhiên. Lúc mình dời thuyền lên bãi nhũ đá, em thấy thương anh vô cùng. Em tự hỏi, sao cho đến bây giờ, khi em đã là người đàn bà ngoài tuổi bốn mươi, đã qua hai lần đò, đã quá dạn dĩ cuộc đời, em mới được gặp anh?

- Và anh đọc thấy điều ấy trong mắt em. Đúng hơn là qua những giọt nước mắt… Và không chần chừ gì nữa, anh đã kéo em vào lòng…

- Lần đầu tiên trong đời em biết thế nào là nụ hôn của tình yêu. Em như đang tuổi hai mươi… Anh đã chuộc lại cho em tất cả những năm tháng lầm lỡ, vô định của mình…

Hằng trườn lên người Huy, phủ lên môi anh một nụ hôn thật dài.

- Buồn cười thật. Cho đến trước khi anh sang Mỹ, em mới biết anh kém tuổi em… - Hằng bật cười, chọc ngón tay vào cổ Huy – To gan thiệt, dám yêu chị… Mà này, em hỏi thiệt nhé. Đi với em, có thấy mắc cỡ không?

Huy gật đầu, muốn trêu nàng. Nhưng Hằng lại thoáng thở dài. Lần này nước mắt chỉ hoen ra hai khoé. Hằng thấy tủi, vì nghĩ anh sẽ cả thèm chóng chán…

- Anh không có tuổi trẻ, nên lúc nào cũng cảm thấy mình già… Còn em, không phải nịnh đầm đâu nhé, ngay cả bây giờ, em vẫn thiếu nữ… Ước gì chúng mình mãi như trong câu thơ Quang Dũng: “ Em mãi là hai mươi tuổi. Anh mãi là mùa xanh xưa…”

Cái đêm ở khách sạn Four Seasons ấy, Huy thật đa tình. Huy toàn nói những lời có cánh. Nhưng quả thật, Hằng là người đàn bà không có tuổi. Trong ánh đèn huyền ảo, nàng còn đẹp hơn cả thần vệ nữ. Mấy tháng qua, mỗi lần bên nhau ân ái, Huy luôn tự hỏi, chắc nàng phải tốn tiền mỹ viện ngang cỡ nữ hoàng điện ảnh Madona nên mới có một làn da, một thân hình tuyệt mĩ nhường ấy?

***

Hình ảnh của Hằng sẽ choán hết tâm chí Huy trên suốt chuyến bay, nếu như không xuất hiện người đàn ông từ hàng ghế trên đi qua chỗ anh, kéo anh đột ngột trở về một quá vãng không xa. Người đàn ông này giờ mập hơn, phương phi hơn, nhưng đôi mắt xếch sau cặp kính cận dày, và nốt ruồi ở giữa trán thì không thể lẫn được. Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là tiến sỹ sinh học Phạm Đăng Sinh, thành uỷ viên, phó hiệu trưởng trường Đại học Công nghệ cao Sài Gòn. Mười bốn năm trước, khoảng cuối năm 1986, trong một đợt học chính trị, Huy từng nghe ông tiến sỹ thuyết giảng tại hội trường lớn thành phố về đường lối Đổi mới do Đảng khởi xướng. Rồi ngay sau đó, Huy đã có cuộc phỏng vấn ông cho báo Việt Trẻ. Hồi ấy, tình hình kinh tế Việt Nam suy kiệt thảm hại, sa lầy sâu ở Campuchia, bị Mỹ và các nước cấm vận, đường lối bế tắc. Phạm Đăng Sinh nổi lên như một hiện tượng cấp tiến. Nhiều nguồn tin úp mở: Sinh chính là ê kíp của đồng chí TXB, đồng chí HP. Nếu phái đa nguyên sắp tới thắng thế, Sinh sẽ giữ một cương vị cực kỳ quan trọng... Huy không thể quên buổi phỏng vấn ông tiến sỹ thành uỷ viên vừa qua tuổi bốn mươi ấy. Một phong thái đĩnh đạc, một bộ óc thông tuệ, một niềm tin sắt đá. “Tớ được đào tạo từ trong lò chủ nghĩa cộng sản nên tớ hiểu nó lắm. Anh em mình nói chuyện tào lao ngoài lề, chớ có viết lên báo nhé. Lẽ ra ngay sau năm 1975 chúng ta đã phải bắt tay ngay với Mỹ và giải quyết con đường hoà hợp theo cách khác, nhất là tránh can thiệp quá sâu vào Campuchia… thì bây giờ ta đã ngang Singapore, Hàn Quốc. Phải coi cái mốc 1975, là đã kết thúc một giai đoạn. Đúng sai rồi lịch sử sẽ phán xét. Nhưng không thể đi con đường cũ, không thể lấy miền Bắc chụp cho miền Nam. Đã đến lúc phải đa nguyên, đa nguyên chính trị đồng thời đa nguyên kinh tế, văn hoá, xã hội… Mô hình độc đảng, toàn trị như Liên Xô và các nước Đông Âu tất yếu sẽ sụp đổ… Hơn lúc nào hết chúng ta phải nghĩ đến Tổ quốc chứ không phải giai cấp như ông Mác, ông Lê xui dại…” Nghe ông tiến sỹ thành uỷ viên nói mà Huy nổi da gà. Phải có kiến văn sâu rộng và tầm nhìn xa lắm, phải có những ai đó thế lực lắm trên thượng đỉnh ngoài Hà Nội chống lưng, mới dám nói năng như thế. Buổi phỏng vấn ấy rất lý thú, nhưng Huy không viết bài. Anh là phóng viên trẻ, vừa từ chiến trường Campuchia về, chưa khẳng định được vị trí trong toà soạn và uy tín nghề nghiệp. Vả lại, có viết cũng không báo nào dám đăng. Bẵng đi hơn một năm, Huy trở lại trường Đại học tìm Sinh thì được biết, ông tiến sỹ đã chuyển đi nơi khác. Nơi khác nào? Có người thì thào: Cầm đèn chạy trước ô tô, hăng máu vịt đòi đa nguyên đa đảng, ngồi chơi xơi nước rồi. Người khác lại bảo: Đang ngồi bóc lịch. Vào Chí Hoà mà tìm.

Mười lăm năm qua, nhiều lần Huy đã chủ tâm tìm kiếm vị tiến sỹ thành uỷ viên bỗng dưng mất hút như bị phép ma thuật, trên khắp dải đất hình chữ S, nào ngờ giờ đây ông đang hiện diện ở nước Mỹ, đang trên cùng chuyến bay với Huy về San Francisco.

- Xin chào tiến sỹ Phạm Đăng Sinh - Huy chủ động hỏi khi máy bay vừa dừng trên đường băng.

Ông khách nhìn sững, mắt kính dày như hai pha đèn dọi thẳng vào Huy, rồi ông reo khẽ:

- Huy nhà báo phải không? Mình vẫn đọc ông trên mạng... Sang đây như bọn mình hay đi công tác?

Câu hỏi mách bảo Huy rằng ngày ấy ông tiến sỹ đã trốn khỏi Sài Gòn theo con đường vượt biên. Chuyến bay duy nhất chỉ có hai người gốc Việt, cho nên họ nhanh chóng trở nên thân thiết.

- Hiện mình với vợ con đang sống ở Toronto, Canada. Hồi ấy mình không chuồn nhanh thì bị tống vào nhà đá. Chuyện mình sang bên này khác nào vượt qua bẩy tầng địa ngục, khổ ải trầm luân lắm, kể cả ngày không hết…

Huy chợt buồn ngơ ngẩn. Hàng triệu cuộc ra đi. Hàng triệu cảnh trầm luân, đoạ đày… Thế hệ đầu tiên của người Việt xa xứ, mỗi cuộc đời là một thiên tiểu thuyết.

Khi hai người ra tới cửa nhà ga, tưởng như phải chia tay nhau đi hai ngả, nào ngờ, đón họ lại là một đoàn. Việt Yến, Đoan Diễm và David Bùi tíu tít chạy lại ôm hôn và đỡ hành lý cho Huy, còn bà Nhạn và Thuyền Nhân thì trang trọng và thân thiết tặng hoa ông Sinh và giới thiệu ông với mọi người.

- Anh em tôi nhận ra nhau từ trên máy bay. Hoá ra lại là người quen biết từ ngày còn ở Sài Gòn - Ông Sinh nói với bà thông gia - Còn ông Huy có biết quan hệ giữa tôi và gia đình bà Nhạn đây là thế nào không? Chúng tôi là thông gia với nhau đấy. Thằng Lương VĩnhToản con trưởng nhà văn Nhân Mục lấy con Phạm Thu Huyền nhà tôi. Hai vợ chồng cháu hiện đang sống ở Vancouver.

Hai chiếc xe do hai tài xế Thuyền Nhân và David Bùi lái, nối đuôi nhau theo đường lên cầu Bay Brigde. Đây là tuyến đường vòng do ông Phạm Đăng Sinh chọn. Mỗi lần về San Francisco, ông Sinh luôn muốn đi con đường này để được phóng tầm mắt trên mênh mông vịnh biển. Ông bảo, từ đây, phóng tầm mắt qua Cổng Vàng, nhìn xuyên đại dương mênh mông sẽ thấy quê nhà. Rất nhiều lần qua đây, đêm về ông lại nằm mơ mình được tắm ở những bãi biển Trà Cổ, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Đà Nẵng, Nha Trang, Mũi Né, Vũng Tàu… Cũng đi con đường này, ngang qua khu Evergreen, ông Sinh lại được ngắm những thảm hoa vàng, mềm mại non tơ như những cánh đồng cải ngồng quê Việt trải dài như bất tận…

- Ông Huy còn nhiều diễm phúc hơn chúng tôi, vì ông luôn được sống giữa lòng quê Việt, luôn được nhìn thấy những mùa hoa cải vàng bên sông, luôn được tắm biển ở Nha Trang, Vũng Tàu… còn tôi ở tận miền đông Canada muôn vàn cách trở, chỉ mỗi lần về Cali mới được hoài vọng về cố hương…

Câu nói của ông Sinh, như muối sát vào lòng bà Nhạn, khiến bà phải lấy khăn tay chấm mắt. Cử chỉ ấy bỗng làm Hành bối rối. Anh cho xe đi chậm lại, lánh sang lane phía ngoài và quay sang nói với mẹ:

- Hay chúng ta ghé Grand Century ăn trưa. Con sẽ nhờ bạn đón ba và bác Thái Đàm đến…

Bà Nhàn vội xua tay:

- Về nhà mình con ạ. Mẹ và Việt Yến đã chuẩn bị cơm sẵn rồi. Ba và bác Đàm đang chờ…

***

Cuộc hội ngộ đông vui đến không ngờ. Ba ông già như bạn cố tri, thật là tri âm, tri kỷ, chuyện này níu sang chuyện kia, bất tận.

Loáng cái, bà Nhạn và Việt Yến được sự trợ giúp của Đoan Diễm đã hoàn tất một bàn tiệc bốc khói thơm lừng. Toàn món ăn Việt: Gà luộc rắc lá chanh, chân giò nấu giả cầy, nem Sài Gòn, giò chả Bắc, đặc biệt có món canh cua đồng nấu mướp rau đay và cà muối ăn với cơm gạo Nàng Hương. Tất cả nguyên liệu này bà Nhạn đều mua tại khu thương mại của người Việt ở San Jose, ngay cả những món rau thơm hai miền Nam Bắc, cả thịt chó mắm tôm, lòng lợn tiết canh… cũng luôn sẵn như quê nhà.

Ông Sinh mở va ly lấy ra một chai rượu trong vắt, đặt giữa bàn tiệc:

- Đây là chai rượu làng Vân chính hiệu, một người bà con vừa từ Việt Nam mang sang biếu tôi. Làng Vân Hà, huyện Việt Yên, Bắc Giang, quê hương của loại mỹ tửu nổi tiếng này, giờ chỉ còn một người đàn bà nắm được công thức men và bí quyết nấu rượu truyền thống làng Vân, đó là bà cụ Tom, năm nay cũng đã hơn tám mươi. Nào, cháu Hành, rót rượu để mời ba mẹ và bác Thái Đàm cùng mọi người.

Cả Thuyền Nhân và Việt Yến, Đoan Diễm cùng tíu tít, lấy ly, rót rượu, mang đến từng người. Riêng David Bùi thì cứ ngồi ngẩn ngắm Diễm và chờ đợi ánh nhìn của nàng, nhưng càng lúc càng thất vọng vì chỉ thấy những ánh mắt như có lửa của Diễm luôn quấn quýt lấy Thuyền Nhân.

Rượu làng Vân và những món ăn quê kiểng chỉ làm ba ông già càng thương nhớ quê nhà. Để mặc cho bọn trẻ cụng ly, chúc tụng, ba ông chụm nhau một góc. Ông Sinh lại lấy từ trong va ly ra tập tư liệu vừa chữ nho, vừa bản dịch chữ Việt dày đến gang tay xếp trên bàn, rồi thao thao thuyết trình:

- Đây là tài liệu mới nhất về Mạc tộc ở Việt Nam. Còn đây là tài liệu cuộc hội thảo về Dương Kinh. Đây là tư liệu về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với triều đại nhà Mạc… Tính từ đời cụ thuỷ tổ Mạc Hiển Dĩnh phát tích từ làng Long Động xã Nam Tân huyện Nam Sách, Hải Dương, làm quan đến chức Thượng thư, Hàn lâm viện học sỹ, đời vua Lý Nhân tông, thì tôi và ông Thái Đàm thuộc đời thứ 26. Nếu tính từ đời viễn tổ lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, một nhà đại văn hoá thời Trần, thì chúng ta thuộc đời thứ 19. Thế mới biết sức sống quật cường của dân tộc Việt. Năm 1592, Trịnh Tùng phò vua Lê đánh tan quân Mạc, nhà Mạc thất thủ Thăng Long lên cố thủ ở Cao Bằng 85 năm nữa. Để tránh khỏi bị tàn sát và trả thù, con cháu họ Mạc đổi họ thay tên phát tán đi khắp nơi, với nguyên tắc “khử túc bất khử thủ”,” biến dị nhi đồng”, chữ Mạc có thể đổi thành các chữ khác, bỏ các nét chân nhưng giữ bộ “thảo đầu” hoặc nét đầu làm dấu để sau này nhận ra nhau. Lại có nguyên tắc nữa, là lấy chữ Đăng làm tên lót họ, như Lê Đăng, Phan Đăng, Nguyễn Đăng…, hoặc lấy họ Mẹ (Bùi, Đặng) làm họ để sau này nhận ra nhau… Vì thế, họ Mạc đổi thành Hoàng, Phạm, Phan, Lều, Liêu, Tô, Thái, Bùi, Đặng, Tạ, Lê Đăng, Nguyễn Đăng… nhiều tới 55 họ, với hơn 500 chi, ở rải rác tại 32 tỉnh thành cả nước và các châu lục trên thế giới… Kỳ lạ lắm các vị ơi, đây là đôi câu đối sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, quan đầu triều Mạc và người thầy của mấy đời vua Mạc: “Tứ bách niên tiền chung phục thuỷ/ Thập tam thế hậu dị nhi đồng”, tức là, “Bốn trăm năm trước, cuối cùng trở lại như ban đầu/ Mười ba đời sau dù khác biệt vẫn tìm lại nguồn chung” . Ấy là vào năm 1992, đúng sau 400 năm kể từ năm 1592, năm nhà Mạc thất thủ Thăng Long, ứng nghiệm với lời sấm Trạng Trình, hậu thế lại bàn đến nhà Mạc, lại tháo cởi cho nhà Mạc cái tiếng Nguỵ triều đã từng bị các triều Lê, Nguyễn xoá khỏi lịch sử, bôi bẩn trong lịch sử, hoặc viết, nhận định, đánh giá khác đi, sai lệch đi. Và đúng mười ba đời, kể từ cuộc tao loạn cuối thế kỷ XVI đó, con cháu họ Mạc lại tìm thấy nhau, lại quy về một tổ tông. Bằng phương pháp nghiên cứu Tân sử học (New history), Xã hội sử học (Social history), các nhà khoa học lịch sử đã bắt đầu xới lên những cuộc thảo luận, bàn định lại về triều đại nhà Mạc, để rồi, năm 1994, cuộc hội thảo khoa học đầu tiên tầm cỡ Quốc gia về Vương triều Mạc được khởi phát tại Kiến Thuỵ, Hải Phòng, nơi phát tích của Vương triều Mạc. Nên nhớ rằng hai câu sấm này Trạng Trình viết khi triều Mạc còn đang lúc hưng thịnh. Cuộc chiến Nam Bắc triều còn đang thế giằng co. Chính Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi ấy cũng đã cho Đoan Quận công Nguyễn Hoàng mấy chữ: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, để sau này, nhờ lời mách bảo ấy mà Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn đã trụ vững sau dải Hoành Sơn và mở cõi về phương nam, tạo nên một bức Đại Nam toàn đồ và một Biển Đông bao la cho con cháu như ngày nay - Ông Sinh đưa ra một trang ảnh chụp - Còn đây, là hỉnh ảnh thanh long đao của Thái tổ Mạc Đăng Dung được tìm thấy tại khu nhà thờ họ Phạm ở thôn Ngọc Tỉnh, Xuân Trường, Nam Định. Thanh long đao đã bị hoen gỉ vì chôn dưới đất ngót trăm năm, cân nặng 25,6 kilogam, dài tới 2,55 mét. Theo các nhà khảo cổ học thì đây là thanh long đao vào loại cổ nhất châu Á, có kích thước ngang với thanh đại đao của Quan Vân Trường thời Tam Quốc…

Ông Thái Đàm run run cầm tập tư liệu do ông Sinh đưa cho:

- Đây rồi. Chi họ Thái ở Lý Nhân, Hà Nam của tôi đây rồi. Theo phả hệ, chúng tôi thuộc phái hệ của thế tử Mạc Đăng Bình… Ông tổ tôi là Thái Liêm, chuyển từ Nghệ An ra từ đời vua Lê Hiển Tông…

Từ nãy, với máu nghề nghiệp, Vũ Bảo Huy vẫn thầm lặng làm nhiệm vụ phóng viên. Anh ghi âm và chụp ảnh, chuẩn bị cho một bài ghi chép, một clip tư liệu về những ngày ở Mỹ, giờ, bỗng dừng máy, góp vào câu chuyện:

- Với những tư liệu này, chúng ta sẽ kiện báo Phục Quốc về tội vu khống được rồi. Ông Thái Đàm không phải là người Hoa, mà là người Việt trăm phần trăm, là hậu duệ đời thứ 19 của lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.

Ông Nhân Mục hưởng ứng:

- Và cần nói rõ thêm: Việc nhà cầm quyền Việt Nam xua đuổi ông Thái Đàm và vợ con ra khỏi Việt Nam năm 1979 là một tội ác. Vu ông là người Hoa để cướp ngôi nhà mặt phố Hàng Buồm, là thủ đoạn đê tiện của những kẻ mất hết nhân tính. Việc kiện có thể tiến hành sau, nhưng ngay tuần tới phải có bài trên mặt báo.

Ông Sinh giơ ngón tay trỏ, như muốn chốt lại:

- Không thể để báo Phục Quốc dùng diễn đàn thoá mạ và vu cáo những người yêu nước Việt. Tôi muốn ngay ngày mai chúng ta mời ông Thái Đàm, ông Nhân Mục, cháu David Bùi, cháu Thuyền Nhân, những người có tên trong bài báo của tác giả Linh Giác cùng anh em ta kéo đến chi nhánh tòa soạn…

***

Trong khi mọi người tranh luận sôi nổi và chuyền tay nhau cây trâm cổ mà ông Nhân Mục vừa mang khoe, thì Đoan Diễm kéo Hành ra ngoài.

- Xuống nhà kho cho em xem chiếc valy bảo vật của mẹ anh nhé - Diễm đẩy Hành đi, như cảnh sát áp tải một tội phạm.

Khi cánh cửa nhà kho đã khép lại, bóng tối, mùi ẩm mốc, mùi thời gian như từ trong các ngóc ngách cùng ùa ra, khiến Diễm bỗng đứng sững như nàng vừa lọt vào một thế giới cổ tích. Từ các góc nhà, từ những hốc tối, hàng trăm đồ vật cùng giương mắt thao láo, cùng vươn ra những cánh tay kỳ dị. Hai chiếc xe đạp mi ni hoen gỉ, bị xẹp lốp bỗng như cựa quậy. Bộ salon kềnh càng như phồng lên mời ngồi. Chiếc võng dù đu đưa như vẫn đang có ai nằm. Mấy chiếc bàn học chất đầy báo cũ bỗng lật giở soàn soạt. Vòng courroie của chiếc máy khâu ở góc phòng chợt chuyển động. Những cặp sách, ba lô du lịch nhất tề động cựa, thòi ra cả mấy chiếc bút chì. Và kia, một chiếc valy da bò đã ngả màu nâu bóng. Chiếc valy chứa hộp ống tre, trong đựng cuốn gia phả dòng họ Phạm và chiếc trâm cổ, chỉ dấu của cội nguồn… Diễm định tiến lại chiếc valy, thì ngay gần đấy bỗng loé lên con mắt độc nhỡn màu nước biển của cô búp bê có mớ tóc vàng, bị mất một cánh tay. Khốn khổ búp bê tật nguyền. Con mắt bị mất như một hốc tối sâu hút. Và cánh tay còn lại cứ chớp chới như cánh chim. Búp bê cứ ngỡ như đang gặp mẹ. Con mắt còn lại nhìn Diễm với ánh nhìn đau đớn…

Diễm đứng tựa vào chiếc giá sách hỏng, áp chặt hai bàn tay lên ngực mình. Trong đó, như có con chim nhỏ vừa muốn vùng bay ra đã vội nằm thoi thóp thở và lắng nghe tiếng vọng của sóng gió đại dương từ nơi nào xa lắm…

Câu chuyện bà Nhạn kể cho Diễm nghe, như được tái dựng lại hoàn toàn. Trong tiếng sóng gào, tiếng gió giật, tiếng súng, tiếng la hét của bọn cướp biển, có tiếng kêu thét của người chồng, của con gái và tiếng khóc chào đời của Thuyền Nhân. Chập chờn trước mắt Diễm, cô búp bê một mắt, một tay bỗng biến thành bác sỹ Hương Giang. Bác sỹ bế Thuyền Nhân lên một chiếc giường làm bằng một con sóng bạc đầu, trôi đến đảo Ruồi. Theo sau là người mẹ và hai đứa con của bác sỹ Hương Giang. Họ bước từ rạn san hô lên đảo với những bước chân máu chảy ròng ròng. Lập tức những đàn ruồi đen đặc kéo đến. Chúng làm thành những đám mây đen che kín bầu trời. Chúng bay vù vù như hàng vạn máy bay phản lực quanh Thuyền Nhân, chĩa những chiếc vòi tua tủa vào cậu bé. Hai người đàn bà và hai đứa trẻ thay nhau chống trả với ruồi và lũ dòi bọ do chúng đẻ ra, để bảo vệ Thuyền Nhân. Nhưng rồi, bác sỹ Hương Giang đã bị bầy ruồi đánh gục…

Diễm bỗng ôm mặt và khóc nấc lên.

Linh cảm như có gì sắp đổ sập sau lưng mình, Hành vội quay lại.

- Kìa Diễm… Em làm sao vậy?

Tiếng Hành thảng thốt trong khoảng tối. Diễm ôm chầm lấy anh, như thể chính nàng đang sắp chìm trên biển.

- Thuyền Nhân ơi. Em thương anh quá… Sao anh lại có thể sống sót được… đến bây giờ?