Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

TIẾNG TRỐNG KÊU OAN

Nguyễn Đắc Xuân
Thứ sáu ngày 18 tháng 5 năm 2018 8:56 AM



Ngày xưa, đến cửa quan thưa kiện một việc gì người dân thường kêu “bẩm lạy ba tòa quan lớn”.

Tại Kinh Thành Huế ngày nay, bên trong cửa Thượng Tứ có một tòa nhà lớn người dân thường gọi là Tam Tòa (1).

Vậy “ba tòa”, “Tam Tòa” có nghĩa là gì, vai trò của nó trong đời ông pháp luật của người Việt Nam xưa ra sao ?

Các nhà nghiên cứu cho biết dân nông nghiệp có một đặc biệt là hay thưa kiện. Mà đã thưa kiện thì thường xảy ra chuyện hối lộ đút lót. Nhận đơn xử kiện là một cơ hội tốt cho bọn tham quan ô lại sách nhiễu nhân dân. Vì thế nhà nước thời quân chủ có dụng tâm hạn chế bớt việc thưa kiện. Mặt khác nhà nước cũng áp dụng nhiều luật lệ trừng phạt nặng nề những kẻ có chức quyền có cơ hội quấy cho “đục nước” để được “béo cò”.

Cho đến triều Nguyễn, nhà nước giao cho chính quyền phủ, huyện làm quan tòa sơ thẩm. Trước tiên phủ , huyện tìm cách hòa giải. Nếu không hòa giải được thì chiếu luật định tội. Phủ huyện xử chưa xong đưa lên Tỉnh xử phúc thẩm. Ở Tỉnh quan sát coi việc Hình, quan bố chính coi việc Hộ. Tỉnh có quyền phán quyết. Trường hợp can phạm bị trọng tội từ án đồ (đi đày) trở lên phải báo về bộ Hình (Tư pháp) và tâu lên vua.

Nối chung việc thưa kiện xử phạt ngày xưa đa số thì đều được giải quyết ngay ở tỉnh. Mà ở địa phương cũng khó lòng tránh được việc trù dập oan ức.

Một ông vua nếu để xảy ra tình hình oan ức trong hình ngục là làm điều không thuận với lòng trời. Và như thế sẽ bị trời phạt bằng giặc giã, hạn hán kéo dài, mưa bão gây ra mất mùa, thiệt hại tài sản… Các ông vua phương Đông tin như thế. Từ lòng tin đó buộc nhà vua phải có biện pháp giải tỏa sự oan ức. Cơ quan phụ trách việc “giải oan” này là Tam pháp ty.

Tam pháp ty là một cơ quan hỗn hợp ba thành phần ở ba cơ quan nội chính quan trọng là bộ Hình (Tư pháp), Đô sát viện (gần giống với viện kiểm sát trung ương ngày nay) và Đại lý tự (Tòa thượng thẩm, tòa phá án).

Lúc đầu Ty tam pháp nằm ngay chân Kinh Thành giữa cửa Ngăn và cửa Thượng Tứ (nơi xây dựng viện Tỳ Bà của nhạc sư Nguyễn Hữu Ba ngày nay), sau dời về Tam tòa (một cụm ba kiến trúc sắp thành hình chữ Mớn). Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) qui định hằng tháng cứ đến ngày 6, 16, 26 thì Tam pháp ty mở hội đồng để nhận các đơn thưa kiện của nhân dân. Vào những ngày thường trước cửa Tam Tòa có treo sẵn một cái trống lớn gọi là trống Đăng Văn “phàm các thần dân có tình trạng bị oan ức bất thần đến đánh ba tiếng trống thật mạnh, tiếp theo là một hồi trống dồn dập mau hơn. Nghe trống Đăng Văn vua cử một viên chức ra nhận đơn”. Trước khi đem đơn vào đệ lên cho vua phê viên chức ấy phải trói người đánh trống Đăng Văn lại, nếu người ấy lợi dụng trống Đăng Văn tố cáo sai sẽ bị tội nặng. Nếu lá đơn kêu một việc oan thật, vua phê xong giao xuống cho Tam pháp ty xét nghĩ và nhà vua sẽ quyết định sau cùng. Như vậy Tam pháp ty có vai trò như một tòa chung thẩm.

Tiếng trống Đăng Văn là một việc hệ trọng vang dội đến tai vua cho nên ngày xưa trong Nội thành cấm không cho đánh cá loại trống khác để khỏi nhầm với trống kêu oan.
Nhờ có trống Đăng Văn mà bà Nguyễn Thị Tồn đã đáp ghe bầu ở trong Nam ra xin minh oan cho chồng là Bùi Hữu Nghĩa khỏi tội tử hình.

Sau ngày thất thủ Kinh đo 1885 vua nhà Nguyễn không còn có quyền để giải oan cho dân nên bãi bỏ Ty tam pháp và trống Đăng Văn. Năm 1901 vua Thành Thái lập lại nhưng rồi cũng không làm được việc gì. Đến năm 1906 bỏ hẳn.

Trống Đăng Văn là một biểu hiện tinh thần thân dân của nhà nước VN thời quân chủ.

Ngày nay nước ta dan làm chủ, từ Trung ương xuống các địa phương có Phòng tiếp dân, có báo chí, có các ban thanh tra, kiểm tra ngày đêm tiếp không biết bao nhiêu đơn trương của những người kêu oan, không giống như ngày xưa chỉ có một Tam pháp ty, một trống Đăng Văn. Tuy thế người dân vẫn ước ao có thêm một cơ quan tương tự như Trống Đăng Văn. Trống bây giờ có đánh rách mặt da bò cũng không vượt được sự ồn ào của xã hội công nghiệp để đến được tai vị nguyên thủ quốc gia. Nhưng ví như có một phòng nào đó ở Bưu điện, mắc sẵn một đường dây điện thoại đặc biệt, để vào một ngày qui định hàng tháng dân cũng đến tự trói mình kêu oan thẳng tới người có trách nhiệm tối cao của quốc gia thì hay biết chừng nào !

N.Đ.X
___________

Chú thích:


(1) Trước năm 1975 Tam Tào pháp đình Thượng thẩm, sau năm 1975 được làm cơ quan Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế. Hiện nay sử dụng làm Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế

Tranh minh họa trích lại của Tôn Thất Thọ.
[Nguồn: Nguyễn Đắc Xuân, Cố Đô Huế Bí Ẩn Và Khám Phá, Nxb.Thuận Hóa 1997,