Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

NHỮNG NHÀ VĂN TUỔI THÂN

Viên An
Thứ hai ngày 8 tháng 2 năm 2016 5:12 PM



chu phoong arial moi copy - Theo các nhà tướng số học, người tuổi Thân có một số đặc điểm về tính cách như: thông minh, có tài, hiếu động, phản ứng nhanh, biết nắm bắt thời cơ, ý chí kiên định, niềm tin vững vàng, ý thức cạnh tranh mạnh mẽ, tính toán khôn khéo, đầu óc tỉnh táo. Họ đa tài đa nghệ, cảm nhận tốt, ăn nói hài hước, giỏi ứng phó, có sách lược rõ ràng, làm việc chín chắn, giao tiếp xã hội tốt, có thể nhanh chóng tạo dựng quan hệ với người khác, song không thích bị người khác chi phối, thích tìm kiếm sự vật mới mẻ, biện luận giỏi, mong muốn thể hiện mình một cách mạnh mẽ,... VNQĐ điện tử xin giới thiệu cùng độc giả những nhà văn tuổi thân có thành tựu văn chương dưới đây:


9nv
9 nhà văn tuổi thân nổi tiếng



1. TỐ HỮU
Nhà thơ Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4/10/ 1920 (năm Canh Thân) tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ ca cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của ông đã được khẳng định qua các giải thưởng cao quý và ông cũng là người có nhiều thơ được sử dụng giảng dạy trong nhà trường, từ bậc học phổ thông đến đại học. Ông đã từng nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật, năm 1996.

to huu

Nhà thơ Tố Hữu là người nửa thế kỷ lĩnh xướng hùng ca vì tính từ năm ông gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản (1936) đến khi ông rời chính trường (1986), vừa tròn nửa thế kỷ. Còn sau đấy dường như mọi việc đã khác. Tố Hữu không chỉ là người sớm giác ngộ cách mạng, mà còn là người đến với thơ ca cách mạng từ độ tuổi bẻ gãy sừng trâu (năm 1937).

Ngay từ những ngày đầu cầm bút, Tố Hữu luôn ý thức và xác định rằng phải hát vang bản hùng ca cách mạng trong thơ. Hai tư cách chiến sĩ cộng sản và thi sĩ cách mạng trong ông luôn quện chặt làm một với nhau gần nửa thế kỷ. Ông quan niệm về thơ ca cách mạng khá rõ: Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân. Ngoài ra, các nhà thơ Cách mạng còn phải kiên quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước những biểu hiện lệch lạc, với cái xấu, cái ác. Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng.

Ở một góc nhìn khác, nếu không có cách mạng thì cũng không có nhà thơ Tố Hữu. Người chiến sĩ cộng sản là cái gốc, còn thơ ca cách mạng chỉ là những giây phút “xao lòng” của người chiến sĩ ấy. Càng về sau, thơ ông càng tỏ rõ là công cụ, là vũ khí tuyên truyền trong đấu tranh cách mạng. Với Tố Hữu không có nhà thơ đứng ngoài người chiến sĩ cộng sản. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, cũng là hoạt động nghệ thuật của mình, Tố Hữu đã xuất bản các tập thơ: Từ ấy (1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1962-1971), Máu và Hoa (1977), Một tiếng đờn (1992), Ta với ta (1999).

Năm tập thơ đầu, ông luôn là người lĩnh xướng của dòng thơ ca cách mạng với tư cách là một thi sĩ. Còn với tư cách người chiến sĩ cách mạng, ông lại là người chỉ huy của giàn hợp xướng thơ ca ấy. Với cả hai tư cách, tiếng nói của ông trên chính trường cũng như trên thi trường đều có ảnh hưởng lớn và mang tính quyết định đối với dòng thơ ca cách mạng trong diễn trình thơ ca Việt Nam hiện đại.

2. CHẾ LAN VIÊN
Nhà thơ Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20/10/1920 (năm Canh Thân), tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, nhưng lại lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, Bình Định đến khi tốt nghiệp Thành chung, rồi thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Ông mất ngày 19/6/1989 tại Bệnh viện Thống nhất, TP HCM, hưởng thọ 69 tuổi. Ông đã từng nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật, năm 1996.

images640423 Che Lan Vien chum tho di cao tieng gam su tu phunutoday vn

Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là miền đất có nhiều duyên nợ với ông trong việc hình thành phong cách thơ tuổi thiếu thời. Ông làm thơ rất sớm và năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, đã xuất bản tập thơ đầu tay mang tên Điêu tàn, với lời tựa đồng thời là tuyên ngôn nghệ thuật của nhóm Trường thơ Loạn, mà ông là linh hồn của nhóm ấy. Cũng từ đấy, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mạc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là Bàn thành tứ hữu của đất võ Bình Định. Ông có nhiều thơ được giảng dạy trong nhà trường từ bậc phổ thông đến đại học. Chế Lan Viên là người viết nhiều cả về số trang và thể loại. Về Thơ, ông có đến gần 20 tập, tiêu biểu như: Điêu tàn, Ánh sáng và phù sa,Hoa ngày thường - Chim báo bão, Đối thoại mới,... Văn cũng có: Vàng sao, Những ngày nổi giận, Bác về quê ta,... rồi Tiểu luận phê bình: Nói chuyện thơ văn, Phê bình văn học, Suy nghĩ và bình luận, Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân,...

3. TÔ HOÀI
Nhà văn Tô Hoài có tên khai sinh là Nguyễn Sen. Ông sinh ngày 07/9/ 1920 (năm Canh Thân), tại xã Kim An, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (cũ). Nhưng tuổi thơ ông sống ở quê ngoại gắn liền với con sông Tô Lịch ở làng Nghĩa Đô, thuộc huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (cũ), nên ông lấy bút danh là Tô Hoài. Ngoài ra ông còn có nhiều bút danh khác như: Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Vũ Đột Kích, Hồng Hoa, Phạm Hòa. Ông bước lên văn đàn Việt Nam từ cuối những năm 30 của thế kỷ XX, đến nay đã hơn 80 năm cầm bút. Ông đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật, năm 1996, cho cụm tác phẩm: Dế mèn phiêu lưu ký, Truyện Tây Bắc, Vợ chồng A Phủ, Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ,...

nha van to hoai tac gia de men phieu luu ky qua doi o tuoi 95 d6df6ed6e8e02c6fe497074124a4926edc3513b7

Đặc biệt nhà văn Tô Hoài có biệt tài quan sát tập tính các loài vật hơn bất cứ nhà văn Việt nào từ trước tới nay. Ông mô tả loài chuột gồm đủ mặt từ chuột nhắt, chuột cống, đến chuột cộc, chuột bạch, chuột xù,... Tất cả bọn chúng đều ngơ ngác nhìn quanh quẩn. Như là họ hít phải cái không khí lạ. Như là họ chẳng quen bò giữa nơi khoáng đãng. Và họ lại nối đuôi nhau, tha thẩn, từ từ bò vào, cũng như lúc bò ra.

Ông viết giản dị đến mức tự nhiên, như là hít thở khí giời, cơm ăn, nước uống. Có lẽ trời đã phú cho ông một bộ óc quan sát tinh tế, một con mắt tình đời.



4. NGUYỄN QUANG SÁNG

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh Nguyễn Sáng, sinh ngày 12/01/1932 (năm Nhâm Thân), tại xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang và mất ngày 13/2/2014. Ông đã từng nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật, năm 2001 cho các tác phẩm: Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng, Chiếc lược ngà, Đất lửa.

Nguyen Quang Sang tuong

Năm 14 tuổi, Nguyễn Quang Sáng đã xung phong vào bộ đội, làm liên lạc cho Liên Chi 2. Được hai năm (1948) đơn vị cử ông đi học thêm văn hóa ở Trường trung cấp kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Tốt nghiệp ông về công tác tại Phòng Chính trị, Bộ Tư lệnh Quân khu miền Tây Nam Bộ, làm cán bộ nghiên cứu Phật giáo và đạo Hòa Hảo. Mãi đến 1955, Nguyễn Quang Sáng mới theo đơn vị tập kết ra Bắc và chuyển ngành với quân hàm chuẩn úy. Khi ấy ông về làm việc ở Phòng Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam được 3 năm, đến 1958, ông về công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam, làm biên tập viên ở Tuần báo Văn nghệ và Nhà xuất bản Văn học,...

Thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở cả hai miền Nam- Bắc cam go và quyết liệt nhất, 1966, ông xung phong vào chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ Giải phóng. Năm 1972, ông quay trở lại miền Bắc tiếp tục làm việc ở Hội Nhà văn.

Sau ngày đất nước thống nhất, ông về thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Hội Nhà văn thành phố các khóa I, II và III. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là lớp hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa II và III, và là Phó Tổng Thư ký Hội khóa IV.
Hơn 60 năm cầm bút viết văn, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã để lại một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ gồm 32 tác phẩm văn xuôi, trong đấy có những tác phẩm tiêu biểu như: Con chim vàng (Nxb Kim Đồng, 1957); Người quê hương (Nxb Văn học, 1960); Đất lửa (Nxb Văn học, 1963); Câu chuyện bên trận địa pháo (Nxb Văn học, 1966); Người con đi xa (Nxb Tác phẩm mới, 1977); Cánh đồng hoang (Kịch bản phim, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1981); Chiếc lược ngà (Nxb Văn học, 1962); Dòng sông thơ ấu (Nxb. Kim Đồng, 1985); Con mèo Fujita (Nxb Hội Nhà văn, 1990), Mùa gió chướng (Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1999); Nó và tôi (Nxb Kim Đồng, 2002), Tạo hóa dưới trần gian (Nxb Trẻ, 2003).

5. HOÀNG TÍCH CHỈ
Nhà văn Hoàng Tích Chỉ sinh ngày 01/9/1932 (tuổi Nhâm Thân), tại xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình có đông anh em cùng cha khác mẹ, nhưng hầu hết đều nổi tiếng như anh cả là nhà báo Hoàng Tích Chu, anh hai họa sĩ Hoàng Tích Chù, từng được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật, đợt II, năm 2001 về lĩnh vực hội họa, anh ba là nhà viết kịch Hoàng Tích Linh và bác sĩ Hoàng Tích Lộ, còn Hoàng Tích Chỉ là em trai út. Thân phụ của ông là cụ Hoàng Tích Phụng, một nhà nho từng làm đến chức Tri phủ Huấn học, song lại dấn thân vào phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục với tinh thần chấn hưng dân tộc, và ra đi trong sự thanh tịnh của cuộc đời…

1img 03862

Nói đến Hoàng Tích Chỉ, không ít người nghĩ rằng ông chỉ là nhà biên kịch điện ảnh thuần túy. Nhưng thực tế không phải hoàn toàn là như vậy. Bởi ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ rất lâu và đã có trên dưới chục cuốn tiểu thuyết đã được xuất bản. Mặt khác, kịch bản điện ảnh của Hoàng Tích Chỉ có nhiều tác phẩm bắt nguồn từ những cuốn tiểu thuyết của chính tác giả và do ông tự tay chuyển thể, nên rất có rất giá trị về mặt văn chương, đặc biệt là ở những kịch bản phim truyện nhựa. Chính vì thế mà ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012 với tư cách là nhà viết kịch bản văn học cho điện ảnh, chứ không phải về các lĩnh vực khác của ngành này.

Trước và sau đấy, nhà văn, nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ đã cho ra đời nhiều tiểu thuyết, kịch bản phim truyện và phim tài liệu có giá trị. Không những thế nhà văn, nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ còn viết và đạo diễn nhiều thể loại khác với hàng chục tác phẩm có giá trị như: Kịch bản phim truyện: Trên vĩ tuyến 17 (Bông sen bạc LHPVN lần thứ I), Biển gọi (Bông sen bạc LHPVN lần thứ I), Vĩ tuyến 17: Ngày và đêm (Bông sen bạc LHP VN lần thứ II- giải thưởng Hoà bình thế giới của Liên bang Xô viết tại LHPQT Matxcơva 1973, giải vàng Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho Trà Giang trong vai Dịu), Em bé Hà Nội (Bông Sen vàng LHPVN lần thứ III - giải đặc biệt LHPQT Matxcơva 1975), Mối tình đầu (Bông sen bạc LHPVN lần thứ V. Giải Nhất chính thứccủa tổ chức Unesco tại LHP Karlovy Vary 1978, Giải Bạc LHP Tân hiện thực lần thứ XXI tại Cộng hòa Italy, 1981), Đất mẹ, Cuộc chia tay mùa hạ, Đêm cuối năm, Đứa con người hàng xóm, Tọa độ chết (kịch bản Hoàng Tích Chỉ và A.Láp-xin; đạo diễn Nguyễn Xuân Chân và X. Gatxparốp), Săn bắt cướp...; Kịch bản phim truyền hình: Những đứa con đất cảng, Lục Vân Tiên...; Biên kịch phim tài liệu: Thành phố lúc rạng đông...; Đã xuất bản các tiểu thuyết: Bão tuyến, Mắt bão, Tướng cướp hoàn lương, Bóng ma rừng Sác,...

Đấy chính là những cái mà với nhiều người trong cuộc đời cầm bút của mình chẳng dám mơ và có không ít người nghĩ rằng làm được như vậy là do tài năng cá nhân, còn với nhà biên kịch lão thành và tài ba Hoàng Tích Chỉ lại cho rằng đấy là do cơ duyên mà có. Cái cơ duyên lớn nhất của người nghệ sĩ chính là biết đồng hành cùng cuộc sống chiến đấu bảo vệ và dựng xây Tổ quốc, biết cảm thông chia sẻ với những nỗi đau, sự huy sinh, mất mát của đồng bào mình, xót thương cho số phận con người trong những lúc bom rơi đạn lạc, hoạn nạn, chiến tranh hay sự đói nghèo, khó khăn của cuộc mưu sinh trong bộn bề những lo toan đời thường luôn trực bám, bươn chải trăm bề những mong được ngẩng mặt, rạng mày lên như bao người khác trên thế gian này. Xét về phương diện này thì trong gần nửa thế kỷ cầm bút sáng tác văn chương và biện kịch điện ảnh, Hoàng Tích Chỉ thực sự đã có được cơ duyên lớn ấy, mà không phải bất cứ nhà văn, nhà biên kịch nào cũng có được.

6. ĐỖ CHU
Nhà văn Đỗ Chu tên thật là Chu Bá Bình, sinh ngày 5/2/1944 (năm Giáp Thân), tại xã Quảng Minh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Thưở thiếu thời, ông theo học trường Hàn Thuyên (Bắc Ninh), một ngôi trường khá nổi tiếng với nhiều học sinh đỗ đạt cao. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, đầu những năm 60, Đỗ Chu đã có các truyện ngắn như: Ao làng, Thung lũng cò Mùa cá bột đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Thời ấy, không ai nghĩ những truyện ngắn này được viết bởi một cậu học sinh phổ thông tỉnh lẻ mới mười tám tuổi vừa bị lưu ban lớp 10. Năm sau, 1963, ba truyện ngắn ấy giành giải Nhất cuộc thi của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật, năm 2012 với các tác phẩmMột loài chim trên sóng (truyện ngắn) và Tản mạn trước đèn (tiểu luận).

91768 7(1)

Chỉ cần đọc tên tập tùy bút Thăm thẳm bóng người của nhà văn Đỗ Chu đủ biết ông là người kỹ càng đến mức nào trong chuyện chữ nghĩa. Có người cho rằng trên văn đàn văn Việt, Đỗ Chu chỉ xếp sau cụ Nguyễn Tuân, một bậc thầy về cái khoản tùy bút, mà giới văn chương quen gọi là văn chương sạch.

Với nhà văn Đỗ Chu, nguồn mạch văn chương dường như không lúc nào ngừng dạt dào tuôn chảy, đúng như ông đã tự bạch: “Có con sông Thương chảy vào đời tôi, lại có con sông Cầu chảy qua đời tôi, và có những trang sách hay nâng bước tôi đi theo năm tháng. Nhiều trang trong đó là của các nhà văn cùng thời với mình, tôi lấy làm vinh hạnh đã được đọc họ. Phần nữa là của một nhân loại tài trí đã dành dụm cả ngàn năm để hôm nay gửi tới chúng ta. Đó là những đôi cánh tinh thần đủ sức nâng bổng ta lên, đủ sức kéo ta đứng dậy”.

V.A

Xem tiếp: Những nhà văn tuổi Thân (phần cuối)