Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Nhà văn Harry Edmund Martinson

Hoang Hưng
Thứ ba ngày 22 tháng 5 năm 2012 4:05 PM


Harry Edmund Martinson là một trong những nhà thơ lớn nhất Thụy Điển, nhận giải Nobel Văn học năm 1974,  được coi là nhà cải cách vĩ đại của thơ ca Thụy Điển thế kỉ XX.
Ông sinh ngày 6 tháng 5 năm 1904 tại Jämshög, miền Tây-Nam Thụy Điển, là con thứ năm trong gia đình có bảy người con và là con trai duy nhất. Bố ông là thuyền trưởng tàu viễn dương, mất khi H. Martinson mới lên sáu sáu tuổi; một thời gian sau mẹ sang Mĩ bỏ lại H. Martinson cùng sáu chị em gái ở lại Thụy Điển; cả bảy anh chị em được đưa vào trại tế bần. Rồi Martinson đến ở các nông trang giúp việc vặt kiếm sống, chỉ những khi ở trường học mới là lúc được nghỉ ngơi và mang lại niềm vui. Khi Thế chiến I sắp kết thúc, H. Martinson đến Göteborg làm thủy thủ thiếu niên trên tàu; từ năm 1920 - 1927 ông làm thợ đốt lò rồi thủy thủ trên tàu viễn dương, bắt đầu một quãng đời “lang thang”: ông đến Anh, Pháp, vùng biển Baltic, rồi đi Bắc Mĩ, sống hai năm ở Nam Mĩ, làm việc cho trang trại cừu ở Uruguay, tới Brazil, qua Nam Phi, sang Ấn Độ, Trung Quốc, Siberi, rồi lại ngược lại Tây Phi. Bệnh lao phổi đã buộc ông trở về Thụy Điển chữa trị. Chia tay với biển, ông bắt đầu làm thơ và viết các mẩu truyện ngắn. 
Năm 1929, H. Martinson cưới nữ nhà văn Moa Swartz - lớn hơn ông 14 tuổi. Cũng trong năm này ông xuất bản tập thơ Con tàu ma (Spökskepp), chịu ảnh hưởng của Rudyard Kipling và Artur Lundkvist. Khi tập thơ Người du mục (Nomad) ra đời năm 1931 thì H. Martinson thực sự được coi là một thi sĩ nổi tiếng và gây tranh luận. Được viết bằng thể thơ tự do không truyền thống trong văn học Thuỵ Điển, Người du mục không được phe “bảo thủ” chấp nhận, nhưng nhiều nhà phê bình vui mừng nhận thấy trong đó “những vần thơ tươi mát và giàu hình ảnh” thể hiện sức bùng nổ và tính đa nghĩa của cảm xúc thơ mới phản ánh tâm hồn người lao động hồn hậu, gần gũi thiên nhiên, đối lập với những băng hoại, méo mó của xã hội hiện đại. Cũng cùng đề tài đó, cuộc sống của một kẻ du lãng vô tư được H. Martinson phản ánh trong các tập bút kí Chuyến du hành không có mục đích (Resor utan mål, 1931), Mũi đất li biệt (Kap farväl, 1933). Những tập kí này của ông được các nhà phê bình đánh giá cao.
Sau hai tập bút kí, H. Martinson bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Cây tầm ma nở hoa (Nässlorna blomma, 1935) với những hồi tưởng về tuổi thơ khổ cực trong các trại tế bần. Một năm sau, ông viết tiếp cuốn tiểu thuyết Vào đời (Vägen ut) kể về những tháng năm tuổi trẻ của mình. Mặc dù đây là những tác phẩm mang nặng tính tự truyện, nói về những khổ ải bản thân nhà văn đã trải qua nhưng không để lại dư âm cay đắng, nặng nề cho người đọc. Vào cuối những năm 1930, H. Martinson còn xuất bản ba tập kí cũng cùng chủ đề về thế giớí, về thiên nhiên trong sự đối lập với những hậu quả của quá trình phát triển xã hội công nghiệp.
Năm 1934, H. Martinson cùng vợ sang Liên Xô tham dự đại hội nhà văn Liên Xô lần thứ nhất, nhưng trở về không phải với những ấn tượng thật tốt đẹp. Năm 1939 nổ ra chiến tranh Liên Xô - Phần Lan, H. Martinson đã ghi tên tham gia đội quân tình nguyện Thụy Điển, nhưng chỉ được một thời gian ông phải rời quân ngũ vì lí do sức khoẻ. Trong thời gian chữa bệnh, ông viết bút kí Sự thật đối mặt với cái chết (Verklighet till döds, 1940) kêu gọi chống lại chủ nghĩa chuyên chế ở châu Âu. Cũng trong năm này ông li dị vợ.
Sau Thế chiến II, ông viết tiểu thuyết Con đường đến Klockrike (Vägen till Klockrike, 1948) và truyện thơ sử thi Aniara, về con người, thời gian và không gian (Aniara, en revy om människan i tid och rum, 1956). Tiểu thuyết Con đường đến Klockrike kể về những chuyến phiêu lưu của một trung niên lãng tử đi du lịch khắp cả đất nước Thuỵ Điển, Tác phẩm này rất nổi tiếng ở các nước nói tiếng Anh, và cũng nhờ điều này mà H. Martinson  được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Thụy Điển - một vinh dự vô cùng to lớn đối với nhà văn xuất thân tự học như ông. Aniara, về con người, thời gian và không gian là thiên trường ca triết học bao gồm 103 khúc ca kể chuyện một con tàu vũ trụ chở tám nghìn người đi lánh thảm hoạ nguyên tử trên Trái Đất. Loài người, với sự phát triển khoa học kĩ thuật như vũ bão, đang đánh mất những giá trị tinh thần. H. Martinson không sợ tiến bộ kĩ thuật, nhưng ông hình dung nó như là một cuộc du lịch vô tận vào bóng tối. Truyện thơ Aniara, về con người, thời gian và không gian nhận được những sự đánh giá rất khác nhau. Nhà phê bình người Mĩ Michael Meyer gọi bản trường ca này là “một sự nhầm lẫn, một lời kêu ca, than phiền”; còn nhà thơ Mĩ Robert Blye lại gọi nó là “một kiệt tác”.
Trong các tập thơ tiếp theo, H. Martinson vẫn đeo đuổi chủ đề về sự đối lập giữa “thế giới cơ giới hoá” và cuộc sống hài hoà với tự nhiên. Năm 1960, sau tập Xe chở đồ (Vagnen) gặp những dư luận trái chiều của đọc giả và giới phê bình, ông tuyên bố sẽ không sáng tác thơ nữa. Tuy nhiên, 11 năm sau, H. Martinson lại cho ra đời tập Thơ về ánh sáng và bóng tối (Dikter om ljus och mörker, 1971), và tiếp đó là Gò đất (Tuvor, 1973). Ngoài ra, H. Martinson còn viết kịch, và trong số những sáng tác kịch của ông, vở Ba con dao từ Wei (Tre knivar från Wei, 1964) được coi là thành công nhất.
Năm 1974, Harry Martinson được tặng giải Nobel (cùng với một nhà văn Thuỵ Điển khác là Eyvind Johnson) vì “trong tác phẩm của ông có tất cả - từ giọt sương đến vũ trụ”. Viện Hàn lâm Thụy Điển gọi hai ông là “những đại diện của các nhà văn xuất thân từ người lao động đi vào văn học và làm giàu cho văn học bằng những số phận phức tạp của mình”. Trường ca Aniara, về con người, thời gian và không gian của Martinson được đánh giá là “một trong những thiên sử thi vĩ đại nhất của thời hiện đại”, là lịch sử tượng trưng của loài người đã đánh mất những giá trị tinh thần, và H. Martinson được gọi là nhà thơ đầu tiên của thời đại vũ trụ.
Ngoài giải Nobel Văn học, Harry Martinson còn được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Göteborg, giải thưởng quốc tế mang tên H. Steffens, giải thưởng của báo Svenska Dagbladet, giải thưởng của Radio Thụy Điển...
Harry Martinson mất ở Stockholm ngày 11 tháng hai năm 1978, thọ 73 tuổi. Từ sau Giải Nobel ông không công bố tác phẩm nào nữa nhưng vẫn viết, để lại một khối lượng lớn các tác phẩm chưa xuất bản(1).
*
Trong những năm gần đây, giữa Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây và Nhà xuất bản Tranan (Thụy Điển) có một chương trình hợp tác văn hóa – xuất bản khá hiệu quả. Bằng nỗ lực chung, tại Việt Nam đã ra đời các tập sách: Thơ Thụy Điển (Nxb Hội Nhà văn – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2009) chọn dịch hơn hai mươi tác giả xuất sắc nhất của nền thơ Thụy Điển từ đầu thế kỉ XX đến nay; Các nhà văn Thụy Điển giải Nobel (Nxb Lao Động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2009) giới thiệu tiểu sử và chọn dịch tác phẩm của bảy nhà văn Thụy Điển được trao giải Nobel đến thời điểm đó(1). Và đặc biệt, tại Thụy Điển lần đầu tiên xuất bản một tuyển tập thơ Việt Nam Cho ngày hôm qua: Mười hai nhà thơ Việt Nam (Till: igår: tolv vietnamesiska poeter, Nxb Tranan, 2010) giới thiệu các gương mặt thơ đương đại Việt Nam thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Và giờ đây, kiệt tác Aniara, về con người, thời gian và không gian của H. Martinson bắt đầu hiện diện trong tiếng Việt. Ý đồ được đề xuất cách đây gần hai năm, nhưng do sự phức tạp của việc chuyển ngữ một trường ca - sử thi - khoa học - giả tưởng trực tiếp từ tiếng Thụy Điển, một thứ tiếng không phổ biến ở Việt Nam, nên với chưa đầy 200 trang sách nhưng đã phải huy động một nhóm dịch giả xuất sắc lao động nghiêm túc và ráo riết để đến tháng 5 này bản dịch tiếng Việt mới kịp ra mắt bạn đọc.
Những người làm sách trân trọng cám ơn Hội đồng Nghệ thuật Thụy Điển, Viện Hàn lâm Thụy Điển, Thư viện Nobel, Nhà xuất bản Tranan và Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam, Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây trong việc tạo điều kiện, phối hợp tổ chức xuất bản sách và những hoạt động của tuần giới thiệu và trưng bày tác phẩm của H. Martinson tại Hà Nội, Việt Nam.

(1) Phần tiểu sử H. Martinson lấy từ Các nhà văn Thụy Điển giải Nobel, Nxb Lao Động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2009,  trang 533-535.
(1) Năm 2011, thêm một người Thụy Điển được trao giải Nobel văn học là nhà thơ Tomas Tranströmer.
 
 
SÁU MƯƠI NĂM VANG VỌNG
LỜI KÊU CỨU TRÁI ĐẤT
(Lời Người dịch tiếng Việt)
Thật tình cờ, giữa những ngày lòng người trên toàn thế giới quặn đau và hoang mang vì những đại họa không thể tưởng tượng giáng liên tiếp, ngày càng khốc liệt xuống khắp các châu lục, tôi nhận được đề nghị từ Thụy Điển, thông qua các bạn ở Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây: chuyển tiếng Việt một “sử thi” (epic) hiện đại của tác giả đoạt giải Nobel 1974 Harry Martinson, một “sử thi” mang nội dung “khoa học giả tưởng”. Tóm tắt nội dung của tác phẩm được coi là một trong những “sử thi” lớn nhất của thời hiện đại, tác giả được coi là nhà thơ đầu tiên của thời đại vũ trụ: Một trong số những con tàu vũ trụ khổng lồ mang tên Aniara chở người tị nạn thoát khỏi Trái Đất đã nhiễm xạ nguyên tử nặng nề và có nguy cơ bị hủy diệt bởi những vũ khí quái lạ khác do trí tuệ con người tạo ra, bị lạc trong không gian, bị kết án lưu đầy vĩnh viễn cho đến khi được cái chết giải thoát.
Tôi nhận lời dịch Aniara thoạt là do tò mò muốn biết một thiên “sử thi” mà nội dung lại là “khoa học giả tưởng” sẽ ra sao? Và quả thật, những khúc ca đầu không làm tôi hứng khởi lắm khi vấp phải không ít thuật ngữ về vũ trụ và công nghệ mà tác giả chế ra (neologism) miêu tả con tàu không gian độc đáo gondolde  và kể về chuyến phiêu lưu bất tận của nó ở “ngoại trường”. Thú thật nhiều lúc không khỏi nản lòng thấy mình chắc khó có khả năng chuyển chúng thành “thơ” đúng nghĩa. Nhưng rồi cảm hứng bừng lên khi óc tưởng tượng mạnh mẽ của tác giả chiếu lên một cuốn phim cảnh tượng không gian siêu thực ám ảnh ma quái cõi trống không trong suốt, lạnh giá, bất động trân trân nhìn ta suốt ngày này sang ngày khác, năm nọ tiếp năm kia. Thành tựu đáng kể nhất về giả tưởng công nghệ có lẽ là “nhân vật” Mima, trí tuệ nghe-nhìn nhân tạo có khả năng bắt sóng của sự sống từ mọi hành tinh xa để chiếu lại qua màn hình của phi thuyền, với sự trung thực “không thể mua chuộc”, lại có thể tự sáng tạo độc lập với cả người thiết kế, một phúng dụ về vai trò của văn nghệ trong thời đại khoa học lạnh lùng.
“Khoa học giả tưởng” dẫu sao cũng chỉ là cái vỏ của một “sử thi” – bài thơ chép sử, tức là chép chuyện một cộng đồng người. Harry Martinson không chậm trễ đưa ta vào, càng lúc càng sâu, càng lúc càng dồn dập, đời sống bên trong của cộng đồng thuyền nhân. Từ nhớ thương, hi vọng, hoài nghi, đến hoảng loạn, bế tắc, cuồng hoan, hận thù, tuyệt vọng; thất tình lục dục của 8.000 con người tị nạn bộc lộ cực điểm trong hoàn cảnh lưu đầy vĩnh viễn khỏi quê hương, nhốt chung trong một cỗ quan tài thủy tinh thường trực đối mặt với hư không và cái chết.
Nhiều người than rằng Aniara sao buồn, sao tuyệt vọng (đúng nghĩa từ cổ Hi Lạp ἀνιαρός - từ gốc mà nó được phái sinh và cộng hưởng - điệp âm “a” như tiếng kêu dài của tác giả). Không buồn, không tuyệt vọng sao được khi Doris -Trái Đất quê hương nhiễm xạ nặng nề không còn chỗ cho sự sống dung thân, rồi nổ tung vì những thứ vũ khí hủy diệt của chính con người sau khi vừa thoát khỏi ngàn năm băng giá do tinh vân băng hàn từ vũ trụ trút xuống. Thiên tai không giết nổi Trái Đất, thì nhân tai đã giết.
“Ta được chở che khỏi bất cứ điều chi:
tàn phá, hỏa tai, bão bùng, băng giá,
hay bất cứ điều gì óc ta hình dung được -
nhưng chẳng được chở che khỏi chính loài người.”
Harry Martinson viết một mạch 14 ngày 29 bài ca đầu tiên sau một đêm mùa thu năm 1953 ngắm qua kính thiên văn thiên hà Tiên Nữ, trong bối cảnh cuộc chạy đua vũ trang giữa hai cường quốc hạt nhân lên cao trào với việc chế ra bom H. Những trang kinh hoàng nhất là cảnh tượng hủy diệt thành Dorisburg qua kí ức của đá – người mù và người điếc hóa đá, của Kẻ Bị Nổ. Những trang đau đớn nhất được viết nên khi Mima, con mắt trí tuệ nhân tạo, sự an ủi thần thánh của nghệ thuật, từ chối phản ánh sự thực khủng khiếp là cái chết tan tành của Trái Đất – Thung Doris vì trận “bão quang”, và tự phân rã. Nhà thơ khóc cho sự bất lực của cái đẹp không còn thể cứu chuộc thế giới.  (Ông sẽ dành ba năm nghiên cứu về vũ trụ và công nghệ để viết tiếp 74 bài ca nữa, và Aniara ra đời với 103 bài ca).
Tác giả rất ý thức về lời cảnh báo vô hiệu của mình, ông hiểu mình đồng số phận với nữ tiên tri Cassandre: “Giống như nàng, tôi biết rằng mình cảnh báo bằng thừa. Người ta nghe Cassandre được một lúc, rồi quên béng lời bà” (trích theo các tác giả bản dịch tiếng Pháp Ylva Lindberg & Samuel Autexier). Hai dịch giả này cho rằng Aniara “tự đăng kí vào hàng ngũ các dystopia” (ngược nghĩa với utopia, tạm dịch là xã hội không tưởng đen).
Lời cảnh báo vẫn còn nóng hổi đến hôm nay, khi Trái Đất biết đến nhiều nguy cơ gấp bội không chỉ từ chạy đua vũ trang mà còn, ghê gớm hơn, từ chạy đua bóc lột thiên nhiên vô độ.
Không chỉ tàn phá môi sinh ngoại cảnh, lối sống lầm lạc của con người hiện đại cũng tàn phá ngay tâm hồn của họ. Luận đề phê phán này được tác giả thể hiện qua những trang miêu tả sinh hoạt của cộng đồng thuyền nhân tị nạn ra không gian vẫn giữ nguyên những thói quen Trái Đất. Sự trống không của vũ trụ hóa ra không đáng sợ bằng sự trống rỗng nội tâm. Sự trống rỗng không thể đắp điếm bằng cách tự lừa dối với những tín điều như chiếc bàn thờ đã long sơn, với việc lao vào những lạc thú cuồng hoan, ngay cả bằng niềm tin vào khoa học thuần túy được chính tác giả gửi gắm thông qua nữ nhân vật Isagel mà ông không giấu lòng yêu mến.
Sự lầm lạc của con người hiện đại còn bị tác giả phê phán mạnh mẽ ở tổ chức xã hội méo mó mà nó tạo ra: chế độ chuyên chế, từ phát xít đến toàn trị, qua những hình tượng khu trừng giới, lò hơi ngạt, “thẻ đục lỗ” kiểm soát con người, Sếp Số Một mà ông định danh một cách sáng tạo là “Kẻ tự thực” (autophage)… Một âm hưởng của Trại súc vật, 1984 (Georges Orwell) bằng thơ…
“Họ bị đập tan thành những tế bào của một nhà nước
luôn yêu sách họ như thói đã quen
dù đã làm tan chảy cấu trúc tâm thần
đã được họ giữ làm vật cống.”
Song, màu đen tuyệt vọng không trùm kín Aniara đến ngạt thở. Trong quá trình dịch, nhiều phen ngón tay tôi trên bàn phím cao hứng chạy như mê theo những dòng tràn đầy xúc cảm hướng thượng của tác giả. Những dòng về Nobby người con gái hiện thân của Phước Thiện, tác giả mượn lời một thủy thủ không gian nói rằng nếu không có nàng, thì “chẳng đáng sống làm gì cái cuộc đời tôi”.  Những trang xuất thần về người ca sĩ mù đã được tôn làm nữ tư tế của Thần Ánh Sáng:
 “Trong thế giới này xuất hiện một nữ thi nhân
với những bài ca nâng chúng tôi hướng thượng
vượt bản thân, lên cõi tinh thần.
Đem lửa thếp vàng vách nhà tù tăm tối
và đem trời cao vào tận buồng tim
lời tro nguội bỗng biến thành lửa cháy”.
Và đối lập với niềm tin mê muội vào tôn giáo, vào giáo điều của mọi thứ “lí tưởng” trừu tượng luôn có sản phẩm phụ là lòng thù hận, Martinson đề cao “niềm vui trần thế”:
 “Tranh đấu vì trời cao là tranh đấu cho niềm vui:
Thiên đường là mục tiêu của mọi trái tim người.
Nhưng ác nỗi những thế lực đầy hắc ám
dẫn dắt cuộc đấu tranh và tập họp dưới cờ
lũ ích kỉ đầy lòng căm giận
khiến đường đi u tối bởi oán thù,
bởi trả hận, bởi bạo hành khoái cảm.
Nhân loại khó lòng cảm nhận về chân lí
như sự thực hành niềm mê đắm tự nhiên”.
Mê đắm tự nhiên trước hết là mê đắm thiên nhiên, một thiên nhiên chưa bị tàn phá, đủ sức “thu xếp” nhu cầu cho con người. Ta gặp lại ở thiên sử thi “khoa học” những khúc ca tuyệt đẹp về thiên nhiên hoang dã, đặc biệt là thiên nhiên Bắc Âu, với bút pháp quen thuộc của một Martinson “nguyên sơ” (primitivist) nhưng tha thiết hơn nhiều trong bối cảnh giả tưởng là tất cả đã bị tiêu vong. Tôi không thể nhịn trích một đoạn thơ tuyệt vời của ông về cảnh thu trong tưởng tượng của cô gái mù:
 “Thu về rồi. Người ta bảo những cây phong bốc lửa.
Và đôi người tôi nghe bước chân qua
khoe cảnh chiều tà trong thung gần đấy.
Họ tả cảnh chiều rực đỏ
với những sọc dài màu tím hoàng hôn.
Và đối diện là cánh rừng, họ nói,
rực lên trên nền bóng đêm.
Họ cũng bảo dưới tàng cây, bóng tối
trắng lên vì giá đọng,
cỏ giống như tóc mùa hè
bạc đi vì tuổi tác.
Đây là cảnh qua lời họ tả:
Một tấm phông màu trắng giá sương
trên nền vàng kim rực lên khi mùa hạ
trả hết cho cái lạnh món nợ đời.
Và họ nói về sự hào phóng của mùa thu:
Tất cả vàng kim rắc trên mồ mùa hạ.
Vẻ huy hoàng trải trước mắt ta
giống một lễ tang của đám digan đó:
Những giẻ vụn màu vàng màu đỏ
và những băng vải vàng kim từ xứ Ispahan.”
Mê đắm tự nhiên cũng là mê đắm sự vui sống trẻ trung, ở đây được hiện thân nơi cô nàng “Daisi róc rách, vô tư và hạnh phúc/ và tất cả con người nàng được tạo hóa sinh ra/ để hát ngợi ca quay cuồng điệu yurg.” Thiên sử thi về chuyến trường chinh lạnh giá nhiều lúc nóng lên những khúc tình ca say đắm, hoan lạc ngất ngây mà Bài ca của Dục Nương chỉ là một thí dụ:
 “Hỡi người kị sĩ từ hoang mạc Thiên Cầm
cứ cưỡi ngựa tới em và gõ cửa.
Hãy để sự sống của em nảy mầm với chủng tử của anh,
sự sống nhỏ xinh mà anh có thể tìm vào được.
Trời chằm chằm nhìn ta. Cái nhìn lạnh băng ngoài cửa.
Hãy vào đây, em sưởi ấm anh mà.
Giá anh cùng em làm tan cái lạnh
- ý nghĩ này nóng bỏng giữa không gian”.
 “Sự khôn ngoan của bánh mì mộc mạc”, minh triết mà nhân vật nam chính của Aniara xin được trở về một kiếp nào xa lắm để học lại, chính là điều tác giả gửi gắm để “phản biện” lối sống “hiện đại” quá dư thừa thông minh đến trở thành tàn phá. Triết lí giản dị ấy thật dễ hiểu với Harry Martinson (1904-1978), một con người ra đời trong cùng khổ, trưởng thành trong lam lũ. Nhà thơ tương lai sớm bị đưa vào trại trẻ mồ côi cùng với sáu anh chị em của mình, trở thành thủy thủ, công nhân, đủ nghề luân lạc, một Maxim Gorki của Bắc Âu, tự học và viết, để rồi trở thành Viện sĩ Hàn lâm của xứ sở đương cai giải Nobel. Minh triết quá giản dị mà những siêu trí tuệ hiện đại không biết hoặc quên mất từ lâu.
 “Chúng ta vốn người Địa Cầu, Doris,
hòn ngọc sáng ngời trong hệ Thái Dương,
quả cầu độc nhất dành mảnh đất lành
đầy sữa, mật dâng cho Sự Sống.
Hãy miêu tả những phong cảnh ngày xưa
ngày rực rỡ mà rạng đông sinh hạ.
Hãy miêu tả tạo vật kia xinh đẹp
đã may áo liệm cho nòi giống chính mình
cho đến khi Chúa Trời và Quỷ Vương tay nắm tay
khắp xứ sở tan hoang, nhiễm độc,
chạy lên núi và nhào xuống vực
trốn khỏi loài người – vua của tro than”.
Lời cảnh báo của Harry Martinson không thừa. Hành tinh của chúng ta vẫn chưa bị khai tử chính là nhờ những hồi chuông báo động liên tục, kế tiếp nhau không mệt mỏi như thế. Nhưng những “kẻ tự thực” tham lam và đầy quyền lực không biết rằng ăn thiên nhiên, ăn đồng loại là ăn chính mình, vẫn đầy nhóc khắp nơi để sẵn sàng hủy diệt Trái Đất. Các bạn Thụy Điển chọn Aniara để giới thiệu với bạn đọc Việt Nam hôm nay chắc không hề ngẫu nhiên. Cuộc chiến cuối cùng của cả nhân loại chính là cuộc chiến để cứu lấy ngôi nhà chung hành tinh đang lâm nguy này.
Bán đảo Tân Phong, thu - đông 2011
HOÀNG HƯNG