Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

THƯ NGỎ GỬI ÔNG ĐINH LĂNG,

Nhà thơ Trần Nhuận Minh
Thứ năm ngày 25 tháng 12 năm 2025 1:56 PM


( Tiến sĩ TRẦN LĂNG,

Hiệu trưởng trường Đại học Phú Yên )

Thưa ông,

Tôi vừa đọc bài “ Giáo dục – Quốc sách đột phá để phát triền” của ông trên Vanvn cập nhật ngày 1 /12/ 2025, từ báo Đắc Lắc đã đăng trước đó. Tôi rất hoan nghênh những ý kiến của ông. Nhưng tôi thấy vẫn phải thưa lại với ông một điều, rằng: Câu nói ông ghi là của Chu An: “ Ta chưa từng nghe nước nào coi nhẹ sự học mà khá lên đươc”, là lời của một nhà viết kịch đặt vào mồm một diễn viên sâu khấu đóng vai nhân vật Chu An , trong một vở kịch dài đấy, ông ạ, không phải lời ông Chu An thật đâu, ông ơi. Có nhiều người nhầm như ông, chứng tỏ vở kịch của ông bạn tôi đã thành công.Tác giả kịch bản là nhà viết kịch nổi tiếng, bạn học trên tôi 1 lớp và cùng quê với tôi ( cũng cùng quê với quê hương thứ 2 của ông Chu An, nơi ông đã để lại phần mộ của mình ).

Ngay danh xưng “ Vạn thế sư biểu - Người Thầy của muôn đời” cũng là ý tưởng rất lớn lao và tốt đẹp, của một người bạn khác, ít tuổi hơn tôi, nhưng tôi rất quí và trân trọng . Ông đã có công lớn ( cùng nhiều người ) lo toan xây mới ngôi đền thờ Chu An ( khoảng 20 - 25 năm trước) ở Chí Linh Hải Dương - nay thuộc Hải Phòng. Với tầm văn hoá và tâm huyết sôi nổi, ông đã sáng tác bài Văn tể Chu An rất hay và ông trực tiếp đọc rất sang trọng, tôn kính và cảm động, trong không khí linh thiêng của Lễ khai trương ngôi đền thờ Chu An của quê hương tôi, và điều đó góp phần làm cho danh xưng này do ông nêu ra, được nhiều người dễ thừa nhận. Tôi đã có bài viết riêng về ông: “ Người rất tâm huyết và có công lao trong việc lo toan khôi phục các giá trị văn hóa và lịch sử quốc gia của xứ Đông”. Bài cũng đã đăng nhiều báo, tạp chí và in sách, trong đó có tập sách giành riêng cho cá nhân ông.

Nhân dịp này, tôi gửi tặng ông Tiến Sĩ ( và bạn đọc ) bài tôi đã viết về CHU AN từ khoảng 20 năm trước ấy : CHU AN – MỘT NGƯỜI NHƯ THẾ MÀ NHƯ THẾ, để ông và bạn đọc cùng tham khảo. ( Tôi có bổ sung một vài đoạn mới ).Vì lúc viết bài này, không xin phép được 2 tác giả, nên tôi không ghi tên hai ông, do đó bây giờ , tôi vẫn để nguyên như thế. Ông và nhà viết kịch đều đã đọc bài viết này của tôi, rất hoan nghẹn tôi, hiện sống rất vui khỏe ở Hà Nội. Bài viết của tôi đã đăng nhiều báo, cả trong và ngoài nước, đã in sách, sách đã được giải Giải thưởng và đang tái bản lần thứ 3.

CHU AN – MỘT NGƯỜI NHƯ THẾ

MÀ NHƯ THẾ

Nói ra điều này có vẻ lẩn thẩn nhưng nghĩ đi nghĩ lại không thể không nói. Đó là danh nhân văn hoá Chu An ( 1292 – 1370) thời Trần, Tư nghiệp Quốc Tử giám Thăng Long, mà trong danh mục in sách tư liệu khoa học ở Văn Miếu Quốc Tử giám, ghi rõ chức vụ là Hiệu phó trường Quốc Tử giám ( như Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam – Một vài GSTS bây giờ lại ghi ông Tư nghiệp là Hiệu Trưởng thì lạ thật !). Chu An đã dâng sớ xin vua chém 7 tên gian thần đang nịnh hót bên cạnh vua và làm nhiều điều phản nhân nghĩa ở trong triều. Vua Dụ Tông và thượng hoàng Minh Tông nhà Trần không nghe. Ông “ treo mũ, từ quan” bỏ kinh thành Thăng Long về núi Phượng Hoàng ở ẩn, theo quan niệm “ xuất xử hành tàng” của nhà Nho, nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, mở trường tư, kiếm sống bằng nghề dạy học và bốc thuốc Nam. Ông tự đặt tên hiệu mới của mình là Tiều Ẩn – một ông ở ẩn làm nghề đốn củi để sống. Sau khi mất, ông được vua ban Mĩ từ để thờ là Khanh tiết ( Một ông quan có tiết tháo - nghĩa là có khí khái, vua không nghe thì bỏ vua, đi ở ẩn - thế thôi ).

Cái mà muôn đời sau tôn vinh ở ông, là phẩm chất tiết tháo của một bậc Đại Nho, trung thực và dũng cảm, dám đương đầu “một mất một còn” với một tập thể (7 tên) phản dân hại nước đang nịnh hót ở bên cạnh vua và được vua rất sủng ái. Tờ tấu trình dâng vua ấy, đời sau gọi là “Thất trảm sớ”, rất tiếc, thời ấy sử quan đã không ghi, nên nay cũng không còn thấy ở đâu, 7 tên thì chúng là những ai, giữ chức vụ gì trong triều đình, có những tội gì? Bản Thất trảm sớ không còn, nhưng tinh thần cảnh báo mãnh liệt của nó, và khí phách cao cả hiếm có của người sản sinh ra nó, thì còn lại đến muôn đời sau, và ở đời nào, cũng có tính thời sự, với nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Lịch sử hưng phế của mọi quốc gia đều chỉ ra rằng: bất cứ quốc gia nào, giành được chính quyền bằng bạo lực, mà sau đó, văn hóa thì suy đồi, kẻ sĩ thì thấp hèn, những người có tiết tháo như Chu An thì quay lưng lại, quan lại thì tham nhũng, sa đọa và tàn ác, nhà vua thì cho mình là duy nhất đúng - không thấy cần phải nghe ai - quốc gia đó, nhất định sớm hay muôn, sẽ tự sụp đổ. Cho nên, nước mất là tại quan trên và nước loạn cũng thường là từ trên xuống.

Đấy cũng là những năm mà nhà Trần đã bắt đầu bước vào giai đoạn suy tàn. Vua thì ngu tối. Quan thì tham nhũng và tàn ác. Dân thì oan khuất và đói khổ, mà không biết kêu ai. Và Thất trảm sớ là cái chết của một nhà nước đã được báo trước.

Oái oăm thay, một người suốt đời bảo vệ cái đúng mà khi chết, ngay chính tên mình lại bị viết sai, in sai, sai lâu đến mức thành quen, không ai muốn sửa lại cho đúng nữa, tên đường phố, tên trường, tên công viên, tên làng xã mang tên mình, đặc biệt tên ghi trên Lăng mộ chôn mình và tên ghi trong Đền thờ thờ mình, cũng ghi sai tên mình (cả hai công trình Lăng mộ và Đền thờ đều xây lại trong những năm gần đây tại Hải Dương). Ông không phải là CHU VĂN AN (thực ra, cũng không có ai trong số những người nổi tiếng có tên là Chu Văn An cả). Ông là CHU AN, mất năm 1370. Sau khi mất, ông mới được vua Trần Nghệ Tông truy tặngVĂN TRINH công, với nghĩa là một ông trung trinh ( có tiết tháo) cao cả. ( Lạ kì thay, cái tên này, cũng có nhiều nhà “ khoa học” có tên tuổi hẳn hoi, nhầm to ( tôi không nêu tên, vì “vuốt mặt cũng phải nể mũi” chứ ! ), ghi trong công trình nghiên cứu của mình - cho là tước Công, trong hệ thống tước của nhà nước phong kiến là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Nên nhớ tước Công là tước Quận Công , nhà vua chỉ phong cho các tướng lĩnh trong quân đội có công , nhất là những vị tướng đã ra trận lập được chiến công – Làm gì có việc phong “đại tướng lĩnh – tướng công ” cho một ông ở ẩn trong rừng đi kiếm củi ( Tiều Ẩn ).

Như vậy, đương thời ông không biết mình có tên là Văn Trinh. Vì thế, ghi tên ông: CHU AN là đúng, hoặc CHU VĂN TRINH - ghi theo mỹ tự được tặng sau khi đã chết) cũng được, nhưng ghi là Chu Văn An là sai; cũng như Trần Quốc Tuấn là tên, Hưng Đạo Vương là tước, ghi Trần Quốc Tuấn hoặc Trần Hưng Đạo đều đúng, nhưng ghi TRẦN HƯNG TUẤN là sai. Ghi CHU VĂN AN cũng tương tự như ghi TRẦN HƯNG TUẤN vậy. Giả sử ngay bây giờ, ông Chủ tịch tỉnh, có tên như thế mà đăng ký như thế, liệu công an cấp phường xã của ta hiện nay, có dám ghi vào sổ hộ khẩu và cấp chứng minh thư cho ông Chủ tịch tỉnh ấy không? Nói ra điều này thực phiền lòng, rất buồn cười, phải không? - nhưng không nói, không phải ai cũng thông cảm với tôi được – Bằng chứng ư ? Xin cứ đọc báo, đọc sách ( kể cả sách của 1 -2 ông GSTS) , sẽ thấy không ít lần hiển nhiên như thế.

Và tên xã đặt theo tên ông lại gọi là xã Văn An (huyện Chí Linh, Hải Dương). Cái tên này cũng không phải tên ông. Nhà thơ Xuân Diệu có lần đọc báo thấy ghi tên xã ở huyện Kinh Môn, Hải Dương, mang tên nhà thơ Phạm Sư Mệnh là Phạm Mệnh, ông đặt tờ báo xuống và nói, giọng rất bực dọc, lúc đó có tôi ngồi đấy: “ Họ tên của người ta, sao lại tự ý cắt cụt đi như thế. Đặt tên thế này là phạm vào mệnh lệnh”.

Điều mà tôi dẫn giải sau đây là tôi nghe được từ nhà văn Tô Hoài, người đã chấm giải nhất và trực tiếp trao giải nhất Văn học thiếu nhi năm Quốc tế Thiếu nhi 1979 cho tôi, với tập truyện vừa Trước mùa mưa bão, tại Hà Nội, năm 1980. Trong cuốn Chiều chiều, ông có viết về tôi vài dòng, rằng ông ở cùng tôi tại ký túc xá Trường Viết văn Gorki (tên đầy đủ là Học viện Văn học thế giới Maksim Gorki.) Tôi thường tháp tùng ông (thực ra là ăn theo) khi ông đi nói chuyện với người Việt ở Nga, về sáng tác của ông và một số nhà văn bạn ông, như Nam Cao, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Bính... với giọng vui vẻ, rất giản dị và hài hước. Còn ông viết tôi sang Liên Xô để chơi với Trần Đăng Khoa thì không phải. Lúc bấy giờ, làm sao một người như tôi ở mãi tận Quảng Ninh lại sang Liên Xô để mà chơi được. Tôi đi công vụ trong đoàn của Hội Nhà văn Việt Nam, gồm ba người, theo lời mời của Hội Nhà văn Liên Xô. Sau khi hết thờì gian công tác, tôi xin phép Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn Liên Xô, cả 2 đều đồng ý cho tôi được ở lại thêm non hai tháng nữa, để đi sáng tác, được nhà văn Marian Tkachev, Trưởng ban Văn học Đông Dương của Hội Nhà văn Liên Xô, cho tá túc tại đó, cùng với Tô Hoài và Nguyễn Duy. Nhà văn Tô Hoài lúc đó đã thôi các chức vụ của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đi thăm con ở Đông Đức về, còn nhà thơ Nguyễn Duy thì sang dự Hội thơ A. Pushkin ở Leningrad. Nói Nguyễn Duy ở đấy, nhưng Duy chỉ thỉnh thoảng đến đấy chơi, còn tôi, nói ở đấy, nhưng tôi ở luôn phòng của Trần Đăng Khoa, cũng gần đó, để Tô Hoài ở phòng khách một mình cho tiện.

Phải nói Tô Hoài là một kho tư liệu vô cùng quí hiếm về thủ đô Hà Nội. Ông hỏi tôi có biết ai có công đầu đặt tên các đường phố ở Hà Nội không? Tôi thưa là không. Và ông kể. Theo ông, người đó là bác sĩ Trần Văn Lai. Ông Lai là người thân Nhật. Sau khi đảo chính Pháp, Nhật đưa ông lên làm Thị trưởng Hà Nội. Trong thời gian rất ngắn cầm quyền (từ tháng 3 đến tháng 8/ 1945) ông đã làm được một việc rất có ý nghĩa là đổi lại tên cho nhiều tên phố ở Hà Nội, những phố trước kia mang tên người Pháp, nay mang tên các anh hùng và nhà văn hóa người Việt. Ông chỉ để lại duy nhất một phố mang tên người Pháp, là phố Y-éc-sanh, tên một bác sĩ trong quân đội Pháp, nhưng có công chế ra một loại thuốc chữa khỏi bệnh “ sốt rét” – còn gọi là bệnh “ngã nước ”. Bác sĩ Lai là một trí thức yêu nước, am tường lịch sử chống ngoại xâm, nên nhiều tên đường phố Hà Nội mang tên các vị anh hùng dân tộc, từ thời ông, còn được giữ đến bây giờ, nhưng hiểu biết về các nhà văn hoá thì ông bác sĩ này còn hạn chế, nên thường đặt tên ở những phố nhỏ, ngắn, hẹp, nhiều trường hơp là ở những phố còn hẻo lánh, ít người ở hay qua lại. Chính ông đã sai khi viết (hoặc cho viết) chính thức: Chu An là Chu Văn An. Có thể trước đó, cũng đã có người quen miệng mà nói như vậy rồi, có thể cũng đã có người đã viết ở đâu đó rồi. Nhưng tên phố CHU VĂN AN ở Hà Nội bây giờ, thì có CHÍNH THỨC từ đó, rồi sau đó các nơi khác, người khác, cứ thế mà viết theo, nói theo ( như trường Bưởi đổi thành trường Chu Văn An ở gần phố Chu Văn An là một ví dụ ). Vì từ ông, tên đó đã có tính pháp qui. Tuy nhiên, cho đến bây giờ, những sách khoa học, hàn lâm, các tuyển thơ trung đại mà làm tuyển là một người CÓ HỌC, tư duy không lười biếng, đều chỉ ghi tên ông là CHU AN.

Tôi tin là nhà văn Tô Hoài đã nói đúng, Vậy thì cái sai này không biết đến bao giờ mới sửa được đây?

Gần đây, tại nhà thờ danh nhân văn hóa Chu An (mà đề là Chu Văn An) tại Chí Linh, Hải Dương, có dòng chữ lớn màu vàng trên nền đỏ để thờ: “Ta chưa từng thấy nước nào coi nhẹ sự học mà khá lên được”, dưới đề CHU VĂN AN, như một câu danh ngôn “Hiền tài là nguyên khí quốc gia…” của Thân Nhân Trung vậy. Ai cũng ngạc nhiên vì chưa từng thấy Chu An nói thế, viết thế bao giờ. Sau hỏi ra mới biết đó là lời thoại trên sân khấu của nhân vật Chu An trong một vở kịch mới viết cũng khoảng hai mươi năm trở lại đây. Vậy đó là lời của nhà viết kịch hôm nay đấy chứ. Sao lại gán cho Chu An, một nhà nho vô cùng nghiêm khắc, từng dâng sớ xin chém 7 tên nghịch thần ( gian dối) có quyền thế đương thời, để mà thờ được?

( GHI THÊM:

Sau khi bài tôi đăng báo, dòng chữ thờ này đã chính thức dỡ bỏ.

Nên nhớ:

Trong “Đại Việt sử kí toàn thư” ( 1497), ghi lời của Danh sĩ Phan Phu Tiên, nhiều sách ghi là bạn thân của Nguyễn Trãi - nguyên văn như sau: “ Nghệ Tông cho Chu An, Trương Hán Siêu dự vào đó ( phối thờ ở Văn Miếu) thì Hán Siêu là người cứng cỏi, bài xích đạo Phật, còn An thì sửa mình trong sạch, giữ bền khí tiết, không cần hiển đạt”.

Đó là sự nhận chân và xác quyết vô cùng chuẩn mực và cao sang, không ai hơn, cuả một bậc đại trí. Như vậy, Chu An được phối thờ vì sự tiết tháo “ sửa mình trong sạch, giữ bền khí tiết không cần hiển đạt”. Đấy mới là tấm gương sáng treo giữa trời đất cho muôn đời sau của Danh sĩ Chu An. Xin nhắc lại: Sau khi Chu An mất, vua Nghệ Tông ban cho tên thụy để thờ là Khanh tiết ( một vị làm quan trong sạch, có tiết tháo - chỉ có thế thôi. )

Chúng ta bây giờ thờ ông là “ Vạn thế sư biểu – Người Thầy của muôn đời” liệu có đúng không ? với một người được thờ vì “ không cần hiển đạt”. Người “không cần hiển đạt”, khó có thể là người dạy học trò thành người hiển đạt được, để làm Thày giáo của muôn đời. Ông là Hiệu phó trường Đại học,một thời gian ngắn, rồi treo mũ từ quan, về ở ẩn trong rừng núi Chí Linh, mở trường tư dạy một số con em ở làng rừng. Không có sách nào đương thời hay sau ông vài ba trăm năm, ghi học trò của ông, có một người nào đỗ đạt ( như sau này, ta ghi vài ba người nổi tiếng, trước đây sách sử đã ghi là học trò của Trần Ích Tắc, nay gán sang cho Chu An để “xứng tầm” ).

Chúng ta đều biết : “Vạn thế sư biểu” là danh xưng tôn kính, người Trung Hoa giành cho ông Không Tử của họ. Nay ta mượn cái tên ấy trao cho Chu An. Nếu Chu An lại biết thêm điều ấy nữa, liệu một người trung thực và nghiêm khắc như Chu An, ông có bằng lòng nhận danh xưng vay mượn ấy không ?

Trong trường hợp ở một người trung thực và tiết tháo đến như Chu An, suốt đời bảo vệ cái đúng, mà đến lúc chết, cái tên mình được thờ cũng sai, cái bia trên mộ chí của mình cũng sai, đến cái danh xưng và câu nói để người ta nhớ đến mình, không những đã sai, mà lại còn “ đạo” nguyên xi của người khác, một “đồ giả” hoàn toàn. Trong đời sống văn hóa và tinh thần của con người, chứ chưa nói đến danh nhân, nhân thần hay thần linh, của cả một dân tộc, cái giả để thờ này, khủng khiếp và có hại hơn bất cứ một cái giả nào khác. Trước hết là có hại cho chính Danh sĩ Chu An.

Chao ôi! Một người như thế mà như thế, mới hay tạo hóa đã đùa cợt danh nhân dai dẳng là như thế nào.

Và điều này quả thực là rất lạ lùng và rất xót xa.

Vô cùng trớ trêu và rất oan nghiệt.

Nhân đây, tôi xin thưa thêm:

Cạnh đền thờ CHU AN ( Chí Linh – Hải Dương) là đền thờ NGUYỄN THỊ DUỆ cũng được trùng tu xây dựng khang trang vào dịp này và danh xưng bà là

NGƯỜI NỮ THI ĐỖ TAM NGUYÊN - TIẾN SĨ DUY NHẤT - TRẠNG NGUYÊN DUY NHẤT của nền Khoa bảng Nho học Việt Nam

là một CHUYỆN bịa đặt “ động trời”.

Chuyện rằng: Bà Nguyễn Thị Duệ giả trai đi thi, ở Cao Bằng, thời Mạc, tại khoa thi năm Giáp Ngọ ( 1594) trong khi vua Mạc bị chúa Trịnh truy đuổi, còn chân ướt chân ráo, trong 1 năm đã mở ngay được cả 3 khoa thi quốc gia để bà đỗ đầu cả 3 khoa ( Tam Nguyên), rồi đỗ Tiến Sĩ, đỗ luôn Trạng Nguyên, trở thành người nữ duy nhất trong lịch sử khoa bảng Nho học Việt Nam, có học vị và danh xưng cao cả tuyệt vời này : Nữ Tam Nguyên – Tiến Sĩ – Trạng Nguyên, DUY NHẤT. Từ đó đưa vào sách giáo khoa dạy cho các thế hệ học trò làm người trung thực, đưa cả vào các bộ sử nghiêm túc, cao cả và chuẩn mức nhất quốc gia, lập đền thờ và mở hội hằng năm cho phụ nữ cả nước đến chiêm bái... Để bảo vệ ý tưởng bịa đặt “ động trời” đó, mấy nhà “khoa học – sử thổ phỉ” đương đại, bịa ra cả “Đại Việt Sử kí toàn thư” ghi việc đó, nhưng đọc hết cả thời nhà Mạc không thấy 1 chữ nào về việc đó cả. Bộ tư liệu lịch sử “Đăng khoa lục sưu giảng” của Phó đô Ngự sự Trần Tiến, cùng quê với Bà, ghi tên người đỗ các khoa thi từ Thái học sinh đời Trần đến các Tiến Sĩ thời Lê ( kết thúc năm 1770), ghi tên đủ các vị, mà không có tên bà. Gần đây, Văn Miếu Quốc tử giám Hà Nội, tìm thấy ở Viện Viễn Đông Bác cổ Hà Nội - một thác bản bia đá, dựng cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn, ở quê hương bà, ghi tên đủ cả 42 Tiến Sĩ ở huyện Chí Linh ( Hải Dương) trong đó triều Mạc có 17 Tiến Sĩ ( đánh số từ 21 đến 37 ) mà không có tên Bà. Không có kì thi nào, không có Tam Nguyên, không có Tiến sĩ , thì làm sao có Trạng Nguyên, hở trời ! Mà lại là con gái giả trai từ Hải Dương theo gia đình chạy loạn ( chúa Trịnh truy đuổi ) lên Cao Bằng để đi thi, thi đỗ một lèo, chiểm tất cả các đỉnh cao nhất của tất cả các khoa thi.

Vì thế, trời ơi ! Tôi buộc phải lên tiếng, vì ơn trời, mình vẫn còn một chút “liêm sỉ”. Tôi đã viết 3 tập sách gần 2000 trang in về các việc như thế này, dù đã được trao giải Đào Tấn năm 2023 về Nghiên cứu, Bảo tồn và Phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, tôi vẫn coi việc làm đó của mình là “bất đắc dĩ”, để đính chính và khuyến cáo một số vị GSTS đáng kính , trong đó có cả các bậc Thầy, về việc cần phải hạn chế và chấm dứt nạn “ sử thổ phỉ” hành hoành ( theo “hệ tư tưởng thương mại thần thánh Chùa Ba Vàng”) đã từng bị các báo chí lên án - ở quê tôi ( Hải Dương – Quảng Ninh ) như ở chỗ không người. Tôi đã bị 1-2 người có đơn thư lên cấp trên, nhưng chính cấp có thẩm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra văn bản, xác định tôi không có sai sót gì .

Thưa ông Đinh Lăng và các bạn,

Nếu là chuyện huyền thoại, chuyện dân gian đồn thổi cho vui, hay sáng tác văn chương - như tiểu thuyết chẳng hạn, thì không nói làm gì. Cha ông ta đã có câu : “Văn chương tự cổ vô bằng cứ” – thì cho qua. Những đây là chuyện có thật, là lịch sử, nhuần thấm đạo lí của cha ông, thì xin đừng bịa đặt thêm. Cái Công và cái Đức của các vị ấy lớn lao lắm, cao cả lắm, đáng để cho chúng ta ngưỡng mộ và thờ cũng đến ngàn đời. Thế là đã đủ. Bịa thêm để làm gì ? để “ buôn thần bán thánh” thời kinh tế thị trường. như ta vẫn thường nói ư ? Nên nhớ rằng, một điều, nhất là điều linh thiêng, người ta biết là mình nói dối, thì người ta có quyền không tin vào những điều hoàn toàn có thật khác, mà mình đã nói rất thật, dù điều đó đã phải trả giá bằng máu xương không chỉ của một thời...

Bạn ơi, chả nhẽ bạn không thấy hậu quả của những việc đó là không thế nào lường được ư ?

Kính bút

Trần Nhuận Minh, 81 tuổi.