Trang chủ » Tài liệu tham khảo

VỀ CHUYỆN (GIAI THOẠI HAY LÀ SỰ THẬT) XUẤT THÂN CỦA CỤ NGUYỄN SINH SẮC, CHA ĐẺ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH:

Nguồn FB Kim Van Chinh
Thứ năm ngày 5 tháng 9 năm 2024 3:23 PM


https://www.danchimviet.info/tran-quoc.../01/2021/21751/Có thể là hình ảnh về 2 người và văn bản

Lời gs Sử học Trần Quốc vượng khi viết về chuyện này:

“Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết.

Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Ðàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là “lan truyền” (de transfest folklorique) thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Ðàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng ra hơn nữa… Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta sợ động chạm đến cụ Hồ. Một cái sợ vô nghĩa (insignifiant) nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn trong cuốn tiểu truyện bằng tiếng Anh “Life and Death in Shanghai, đã được phiên dịch ra tiếng Việt, ở xã hội “xã hội chủ nghĩa”, cuộc đời của các lãnh tụ cộng sản được coi là “bí mật quốc gia”.

Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ, cụ Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này” .

Các câu chuyện tôi dẫn sau đây của GS Trần Quốc Vượng và các nguồn khác chưa được lịch sử chính thống cũng như Nhà nước Việt Nam công nhận, nhưng nó được lưu truyền khá rộng rãi và không bị bắt bẻ ở những nơi mà các chuyện đó lan truyền. Nhiều chuyện được thừa nhận như một sự thật, nó cũng phù hợp với các tư liệu khác…

TƯ LIỆU CỦA GS SỬ HỌC TRẦN QUỐC VƯỢNG NHƯ SAU:

“Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của dòng họ Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho, cử nhân Hồ Sĩ Tạo.

Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu về lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thai Mai, người một thời làm Bộ trưởng Giáo dục trong chính phủ của cụ Hồ 45-46 rồi làm Viện trưởng Viện trưởng Viện Văn học, là Hồ Thị Loan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".

Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc. Như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc ngâm chinh phụ: "Hồng nhan đa truân" (Gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên). Hay như Nguyễn Du than thở giùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều: "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau", "Rằng hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu").

Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy tứ dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài").

Cô Đèn, Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...

Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai là Nguyễn Sinh Thuyết, và người con trai này cũng đã có vợ).

Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này, như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ, mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".

Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu vợ anh Thuyết, vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.

Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": Người con trai này - được ông nhận làm con, lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863.

Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".

Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.

May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác rất nổi tiếng (Hồ Sỹ Tạo), lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng, Hoàng Thị Loan, mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa (quê vợ), để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ăn ở riêng.

Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ, làng Chùa, hơn là với làng Sen "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi là ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côông (hay Nguyễn Tất Thành, sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê mẹ hay là quê ngoại. Khi cụ Tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.

Qua giỗ đầu cụ Tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc do được học hành bên nhà bố vợ có đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa quê vợ chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.

Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo, người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc, với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được đặc cách nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự can thiệp của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc, đổi tên là Nguyễn Sinh Huy, đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.

Ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày sau) trở thành con trai út.

Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc giùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng (mọi người tự tìm hiểu danh phó bảng – đó là đỗ đạt nhưng không có chức vụ bổ nhiệm và phải chờ các nhiệm kỳ bổ nhiệm sau mới có chức quan lại để bổ nhiệm) và được "vinh quy bái tổ" về làng. Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội, dù là quê nội chior là danh nghĩa, tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen (gần cạnh nhà cụ Nhậm) , để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng. Ngôi nhà này nguyên thủy rất đơn sơ vì chỉ có nhà gianh, không có đủ vườn tược và nhà phụ (ai tham quan quê làng Sen thời xưa thì biết ngôi nhà này – nay thì bảo tàng đã xây dựng lại hết mất dấu tích cũ).

Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côông (Hồ Chí Minh ngày sau) về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi thơ ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.

Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô nhận chức quan (1904) ở Bộ Lễ, đem theo hai con trai vô Huế học. Năm 1907, ông được điều đi làm Tri huyện Bình Khê ... Rồi sau vụ đánh dân trốn thuế đến chết (khi ông say rượu), ông bị khởi tố và bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sài Gòn rồi Lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa...

Vào Sài Gòn ông vẫn được người quyen của Hồ Sỹ Tạo giúp đỡ rất nhiều.

Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.

Người ta bảo lúc sau, khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.

Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gặn làng Sen! Hay là sau đó nữa chả lẽ không khi nào cụ phó bảng Huy hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích thân phụ mình?

Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này... Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa. Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam, từ trí thức đến người dân quê, lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi bác "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.

TƯ LIỆU DO Fbk Anh Quốc dẫn:

“MỐI QUAN HỆ CHỦ LƯU GIỮA HỌ HỒ HÀ TĨNH VỚI HỌ HỒ YÊN THÀNH, QUỲNH LƯU VÀ CÁC HUYỆN THỊ BẮC NGHỆ AN

Cập nhật lúc: 05/12/2023 (ÔNG ĐỒ SỨ NGHỆ)

Trích:

………

-Thứ nhất: Ông Hồ Sĩ Tạo(1841-1907), Giải nguyên 1868, thi hội đậu

Tam trường 1871. Ông là một người nổi tiếng thông minh, tiết tháo thời bấy giờ. Cụ Phan Bội Châu từng nói với học trò là “Hồ Sĩ Tạo là con Rồng, còn bản thân Phan Bội Châu chỉ là con Rắn”. Ông Võ Hồng Hải (Tiến sĩ, nguyên Giám đốc sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch, nguyên Bí thư đảng bộ huyện Thạch Hà, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Trưởng Ban Tuyên giáo tỉnh Hà Tĩnh) viết: “Chi ở Lai Nhã sinh ra cử nhân Hồ Sĩ Tạo, đỗ Giải nguyên, từng làm Tri phủ Quảng Trạch, Quảng Bình; khi chưa ra làm quan, cụ Tạo từng dạy học ở thôn Hoàng Trù, huyện Nam Đàn. Năm Tự Đức thứ 20 (Đinh Mão, 1867), Giải nguyên Hồ Sĩ Tạo cùng với các vị gốc họ Hồ Cương Gián như Tri huyện Bình Lục Hồ Sĩ Diện, cử nhân Hồ Sĩ Tuấn, cử nhân Hồ Nhạ Cát hành hương về thăm nhà thờ họ lớn, làm lễ cáo yết tổ tiên, làm văn và câu đối để lại lưu niệm. Bài văn do Hồ Sĩ Tạo chấp bút, có đoạn: “Chi của các cháu ở làng Thái Nhã, huyện Thanh Chương là chi thuộc cửa thứ… Khoảng đời Lê Dụ Tôn vị tiên tổ chi họ Thái Nhã là từ làng Cương Gián, huyện Nghi Xuân đến đây vun nền đắp móng, ra công khó nhọc mới có được như ngày nay... Nay có một lễ mọn đơn sơ dâng hiến, mong thấu lòng thành. Mười đời về trước có còn thấu chăng? Ôi, xanh xanh Hồng Lĩnh cây đá như xưa; Dằng dặc sông Kèn nguyệt hoa nghìn thuở…”. (Báo Hà Tĩnh, ngày 02/02/2019).

Trong lần về thăm nhà thờ ở Cương Gián lần đó, ông Hồ Sĩ Tạo đã để lại đôi câu đối: “Trâm anh nhất phổ Quỳnh Đôi trụ /Hương hoả thiên thu cổ nguyệt đường”. Như vậy, từ năm 1867, ông Hồ Sĩ Tạo đã biết gốc tổ của mình là họ Hồ ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An.

- Thứ hai: Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1862 -1929) là con

của bà Hà Thị Hy. Khi còn rất trẻ (khoảng 20 tuổi), ông Hồ Sĩ Tạo được ông Hà Văn Cẩn là bố bà Hy mời về ở trong nhà dạy học. Ông Tạo và bà Hy có tình cảm với nhau nhưng bố ông Tạo không cho ông Tạo cưới vợ khi chưa đỗ đạt, chưa có công danh sự nghiệp gì. Ông Tạo đành bỏ dạy học ở đó và về thi cử để xây dựng sự nghiệp. Ông Tạo đi rồi, bà Hy lấy ông Nguyễn Sinh Nhậm và sinh ra Nguyễn Sinh Sắc. Tuy ông Sắc sinh ra trong nhà họ Nguyễn nhưng theo dư luận lúc bấy giờ, ông Sắc mang dòng máu của ông Tạo. Đây là một vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm. Trong dân gian người ta nói nhiều và nói khá tường tận, còn trên báo chí thì nói khá e dè. Nhưng trong nội bộ họ Hồ chúng ta, có thể nói rõ ràng như vậy.

Năm Quí Mão (1903), cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã đưa 2 con là Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung về Quỳnh Đôi ở nhà cử nhân Hồ Sĩ Tư (ông nội của ông Hồ Viết Thắng) khoảng 1 tháng. Trong khoảng thời gian đó, cụ Sắc và hai con còn làm quen với nhiều người họ Hồ ở Quỳnh Đôi. Khi rời Quỳnh Đôi, cụ Sắc bảo 2 con cùng mình ngoảnh lại vái làng Quỳnh ba vái. Nay ngôi nhà cũ của cử nhân Hồ Sĩ Tư đã có tấm bia kỷ niệm ông Sắc và hai con đã về ở đây.

Về sự kiện này, có nhiều người viết và kể lại. Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu (con trai ông Hồ Viết Thắng) đã tái hiện trong tiểu thuyết “Cuốn gia phả bị thất lạc”. Tất cả những sự kiện trên chứng minh là ông Nguyễn Sinh Sắc đã biết mình là dòng dõi họ Hồ nên 120 năm trước đã đưa các con về gốc Tổ Quỳnh Đôi. Khi ông đi bước nữa, sinh con, ông cho con mang họ Hồ. Con của đời vợ sau ông Sắc sinh năm 1927 có họ tên đầy đủ là Hồ Chí Nghĩa (ông này sau đổi họ thành Vương Chí Nghĩa, có con trai là Vương Tấn Việt đi tu lấy tên là Thích Chân Quang).

- Thứ ba, khi tôi làm việc ở Tạp chí Cộng sản, khi tiếp xúc với nhóm biên soạn tiểu sử biên niên của Hồ Chí Minh, tôi nêu câu hỏi: “Sau hơn nửa thế kỷ xa quê, năm 1957, Bác Hồ về thăm quê, tại sao Bác lại thăm Hà Tĩnh trước Nghệ An? Trong khi đó, từ Hà Nội về, qua đất Nghệ An mới đến Hà Tĩnh)… Cụ thể, Bác Hồ thăm Hà Tĩnh vào ngày 15/6/1957, ngày hôm sau 16/6/1957, Bác mới thăm Nghệ An.”. Đại diện của nhóm này nói: “Câu hỏi rất bất ngờ và lý thú. Những người có thể trả lời chính xác câu hỏi này là bản thân Bác Hồ và có thể là những người đi cùng như đại tướng Nguyễn Chí Thanh, ông Trần Quốc Hoàn… Song, tất cả đã vĩnh viễn đi xa nên chúng ta phải tự nghiên cứu để trả lời câu hỏi này thôi”.

Với riêng tôi thì trong quá trình tìm hiểu lịch sử họ Hồ, tôi đã tìm ra câu trả lời. Đó là Bác Hồ đã biết gốc họ Hồ của mình xuất phát trực tiếp từ họ Hồ Cương Gián, Nghi Xuân, Hà Tĩnh nên Người quyết định thăm Hà Tĩnh trước.

Tình cảm của những người họ Hồ Hà Tĩnh dành cho những người họ Hồ Nghệ An nói chung, họ Hồ Quỳnh Lưu nói riêng là rất sâu sắc. Cách đây khoảng gần 10 năm, tôi ghé thăm Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Khi biết tôi là người họ Hồ Quỳnh Lưu, cô thuyết minh ở đó reo lên: “Ôi, thế anh là người cùng họ Hồ với sếp của em. Hay quá!”. Sau đó, tôi biết Giám đốc Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du là ông Hồ Bác Khoa, thuộc chi họ Hồ huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Tôi có nói chuyện với ông Khoa. Ông cho biết là chi họ của mình cũng chưa kết nối được với gốc tổ nhưng luôn đau đáu nghĩ về điều đó.

Những năm gần đây, người họ Hồ Hà Tĩnh trong những dịp lễ, Tết, giỗ tổ… thường ra Quỳnh Lưu, Yên Thành để thắp hương. Họ cho biết, trong những ngày đó, luôn luôn có sự thúc giục trong nội tâm là phải tìm về cội nguồn của dòng họ Hồ. Trong lễ tôn vinh và hội thảo khoa học quốc tế về Hồ Xuân Hương ở TP Vinh (cuối năm 2022), nhiều người họ Hồ Hà Tĩnh tìm cách tham dự các sự kiện này. Hơn thế nữa, họ còn ra tận Quỳnh Đôi để thắp hương cho Bà chúa thơ Nôm. Đây là cách thể hiện tình cảm của từng cá nhân nhưng lại là xu hướng đại diện cho những người họ Hồ Hà Tĩnh.

\

VỀ ÁN CỦA CỤ NGUYỄN SINH HUY

https://znews.vn/tai-lieu-quy-hiem-ve-cu-nguyen-sinh-sac...

“Năm 1910, cụ Nguyễn Sinh Huy - khi ấy là Tri huyện Bình Khê bị can vào vụ án Tạ Quang. Quang là một địa chủ cường hào, ỷ có thân thế và quen biết rộng nên không chịu nộp thuế và còn chống đối, quan Tri huyện Bình Khê Nguyễn Sinh Huy đã cho lính nọc ra đánh đòn để răn đe. Hai tháng sau thì Quang chết. Vợ Quang làm đơn kiện lên thượng cấp, cụ Huy bị đưa ra Bộ Hình xét xử. Sau vụ án này, cụ Nguyễn Sinh Huy bị giáng 4 cấp và cho đổi về kinh. Tuy nhiên, chán cảnh quan trường, cụ đã bỏ chức, từ quan để vào Nam.”

TƯ LIỆU VỀ GIAI ĐOẠN CỤ NGUYỄN SINH SẮC Ở CAO LÃNH:

https://znews.vn/tai-lieu-quy-hiem-ve-cu-nguyen-sinh-sac...

Năm 1907, ông Nguyễn Sinh Sắc được bổ nhiệm Tri huyện Bình Khê, đến 1911 ông tự gây nạn lớn, khi ông ra lệnh đánh một số nông dân chậm nộp thuế, làm một người chết. Ông bị kết tội, hạ chức và điều về triều đình. Ông đã bỏ kinh đô và quê nhà, bỏ cả các con, đi biệt vào phương Nam, tít vùng sâu Cao Lãnh, tự xưng là Cụ Vương, làm nghề bắt mạch, bốc thuốc.

Một lão nông tên là Mai Nhuận, hàm ơn cụ Vương cứu mạng trong nạn dịch lớn, tự nguyện gả cô con gái út cho cụ Vương để đỡ đần cụ trong tuổi già cô đơn mà cô gái cũng có nơi nương tựa. Mối tình vùng sông nước giữa cụ Vương và cô gái họ Mai đã kết trái và một cậu con trai kháu khỉnh ra đời mang tên Vương Chí Nghĩa, sinh năm 1927. Đây là người em út cùng cha khác mẹ chưa từng biết của Hồ Chí Minh.

Vương Chí Nghĩa khi trưởng thành đã dời nơi sinh ra và trưởng thành, lên vùng Tây Nguyên, sống mai danh ẩn tích để giữ an toàn cho dòng họ cụ Sinh Huy khi đất nước chưa độc lập, lại chia đôi và có chiến tranh. Vương Chí Nghĩa có 2 con trai: Vương Chí Hùng và Vương Chí Việt, cùng 5 con gái, trong đó một người mang tên Hồ Thị Minh Nguyệt đã cùng em là Vương Chí Việt xuất gia đi tu từ năm 1980. Vương Chí Việt mang pháp danh Thượng tọa Thích Chân Quang, hiện chủ trì chùa Phật Quang ở Bà rịa – Vũng tàu. Năm 2007, Thượng tọa đã ra Nghệ An thăm viếng các làng xã quê hương ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu và Nam Đàn, nhận họ hàng với chú bác, anh chị em, con cháu…
Nguồn FB Kim Van Chinh