Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

BÀ "GÁNH GÁNH GỒNG GỒNG" NHƯ TÔI ĐƯỢC GẶP

Hoài Nam
Thứ hai ngày 18 tháng 4 năm 2022 2:01 AM


Vanvn- Bà “Gánh gánh gồng gồng” là bà Nguyễn Thị Xuân Phượng, năm nay 93 tuổi (sinh năm 1929), bà chủ phòng tranh Lotus nổi tiếng ở Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả hồi ký Gánh gánh gồng gồng, cuốn sách đã được cả Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh trao giải cao nhất về văn xuôi năm 2020.

Bà Xuân Phượng trong buổi ra mắt sách ở Tp. Hồ Chí Minh >>>>>

Tôi được gặp bà lần đầu tiên vào thượng tuần tháng ba năm 2022, tại Sài Gòn. Nhưng trước đó, có thể nói, tôi đã gặp bà qua hồi ký Gánh gánh gồng gồng. Sau khi đọc xong, với biết bao xúc động và kính nể người phụ nữ xưng Tôi trong cuốn sách này, tôi quyết định phải Nam tiến bằng được để thấy bà, bằng xương bằng thịt, người đã chia sẻ một tình thế lựa chọn viết hồi ký rất hy hữu ở cái tuổi 90:

“Tháng 7 năm 1989, tôi gặp mẹ mình và các em tại sân bay Charles de Gaulle Paris. Gia đình đã bay từ Mỹ sang thăm vì tôi chưa có thị thực vào Mỹ. Chúng tôi cười cười khóc khóc trong niềm vui đoàn viên. Trong một bữa cơm trưa, bỗng mẹ tôi chống đũa nhìn tôi: “Con ơi, sao con theo họ làm chi để gia đình ly tán, phải rời quê cha đất tổ con ơi”… Tôi không trả lời mẹ ngay hôm ấy nhưng cũng từ đấy nảy ra ý định phải kể lại đời mình. Tôi mong muốn gia đình thương yêu hiểu rõ thêm những gì tôi đã trải qua. Và cũng vì những người trẻ chưa hề biết đến chiến tranh, tôi quyết định viết lại đời tôi”. Và đó, hồi ký này, là một cái viết ghê gớm, đầy hấp dẫn.

Ghê gớm và đầy hấp dẫn, bởi đó là cái viết về cuộc đời một người phụ nữ Việt Nam bé nhỏ bị cuốn vào dòng thác lũ lịch sử cuồng nộ chảy vắt qua hai thế kỷ. Bị cuốn vào nhưng vẫn sống vững, và vẫn thành công lớn. Người phụ nữ ấy từng đi theo cách mạng lên chiến khu Việt Bắc năm mười sáu tuổi, làm y tá quân đội, làm nhân viên chế tạo thuốc nổ, làm báo, từng đẻ rơi đứa con đầu lòng trên sông Lô thời kháng Pháp. Người phụ nữ ấy từng làm cán bộ văn hóa đối ngoại, phiên dịch viên tiếng Pháp cực “xuya” thời kháng Mỹ tại Hà Nội, từng vào tận tuyến lửa Vĩnh Linh trong đoàn phim tài liệu Vĩ tuyến 17, chiến tranh nhân dân của đạo diễn nổi tiếng thế giới Joris Ivens, sau đấy chính bà cũng trở thành một phóng viên chiến trường thời chống Mỹ, một đạo diễn phim tài liệu dày dạn.

Người phụ nữ ấy từng cùng nhân dân Hà Nội, nhân dân cả nước sống khốn khó suốt những tháng ngày bao cấp và hậu chiến đói xanh da vàng mắt trước khi vào Thành phố Hồ Chí Minh mở phòng tranh Lotus, một trong những phòng tranh tư nhân đầu tiên thời đất nước thực hiện đổi mới, mở cửa. Sau đó là liên tục các cuộc triển lãm tranh Việt Nam, chủ yếu của các họa sỹ trẻ, ở khắp nơi trên thế giới suốt ba mươi năm qua (1991 – 2021) mà bà tổ chức hoàn toàn bằng tiền túi của mình, với một ý nghĩ cháy bỏng: phải góp phần làm cho thế giới biết đến hội họa Việt Nam, vì đó là văn hóa Việt Nam, và phải khiến cho họ càng thêm yêu quý, trân trọng nó.

Ghê gớm và hấp dẫn, bởi đó là cái “viết lại đời tôi” của một lão bà 90 tuổi, mà văn phong chuẩn xác, đơn giản và đầy tinh tế. Một ý cần nhấn mạnh: viết hồi ký, phần nhiều người viết sẽ chọn lối tự sự biên niên sử, và ra sức trút vào trang sách tất cả những gì mình còn nhớ được từ những phần đời đã trải, cứ như thể mình sẽ bị lỗ nặng nếu để sót cái gì chưa kể. Nhiều cuốn hồi ký rất dài, rất dày và đọc rất mệt, chính là vì thế. Nhưng Gánh gánh gồng gồng của bà Xuân Phượng thì không như thế. Đó đều là những chi tiết rất thật, nhưng được chọn lọc, nên rất đắt, nhiều chi tiết như những giai thoại “a ếch đốt” thú vị và có sức khái quát cao.

Hơn nữa, như một người kể chuyện lành nghề, bà Xuân Phượng không để câu chuyện đời mình trôi tuột theo dòng thời gian biên niên sử đều đều, mà ở nhiều điểm nhấn, bà tạt ngang để kể chuyện khác, hoặc nhảy gấp tới để nói những chuyện mãi mấy chục năm sau mới xảy ra. Kể, “viết lại đời tôi” theo cách ấy, tôi nghĩ, cũng là điều không dễ thấy đối với ngay cả những nhà văn chuyên nghiệp.

Về tác phẩm thì như thế. Trở lại với việc tôi được gặp bà Xuân Phượng tại Sài Gòn. Số là, tôi rất muốn làm một cái gì đó về bà, dù chỉ là một phim ngắn. Nên trước khi đi khoảng một tháng tôi đã chủ động liên lạc với bà, và kể từ đó, ngày nào hai bà cháu cũng í ới “chém gió với nhau” (chữ của bà) đủ chuyện qua messenger. (Thật bất ngờ, cứ một tin nhắn gửi đi thì ngay sau đó không lâu bà đã gửi tin nhắn trả lời: cú pháp tiếng Việt rất nghiêm chỉnh, chữ dùng và chính tả, dấu chấm và dấu phẩy rất chính xác, nhất là không bao giờ có chuyện cà cộ viết tắt). Đến khi bà cháu gặp nhau tại phòng tranh Lotus 100 Nam Kỳ Khởi Nghĩa thì đã quý mến thân mật như là cố nhân tự thuở nào.

Trong bữa cơm tối đầu tiên, ngoài tôi và một cậu quay phim cùng vào từ Hà Nội, còn có mấy văn nghệ sỹ tham gia: nhà văn Tô Hoàng, đạo diễn phim truyền hình Đặng Lưu Việt Bảo, nghệ sỹ cello Vũ Hồng Ánh. Bà bảo nhỏ với tôi: gọi thế thôi, chứ kêu toáng lên thì có mà “bọn nó” kéo đến chật nhà. Quả có thế thật. Cứ nhìn cái cảnh bà ngồi giữa mọi người, mái tóc trắng phau, đôi mắt hóm hỉnh, miệng cười nói rất tươi, những nếp nhăn trên mặt chỉ giống như món đồ trang sức mà thời gian dành tặng bà, thì mới thấy bà Xuân Phượng đúng là tâm điểm có sức thu hút rất lạ.

Mọi người thích gặp và trò chuyện với bà vì nhiều lẽ: khâm phục một người phụ nữ bản lĩnh, kiên cường, giỏi giang, đầy ý chí vươn lên; yêu quý một tấm lòng trung thực, nhân hậu, biết lắng nghe và biết chia sẻ với người khác; một người biết suy nghĩ rất thực tế nhưng lại cũng rất rộng lượng, hào hiệp, đầy tinh thần “anh Hai Nam Bộ” trong ứng xử. Nhưng vẫn còn một lý do khác nữa: bà Xuân Phượng, đó là cả một kho chuyện đời, chuyện làng văn nghệ ngồn ngộn, dường như không vơi cạn, do đó những gì bà kể trong hồi ký Gánh gánh gồng gồng mới chỉ là một phần nhỏ mà thôi. Phần lớn, thì bà… “xuất bản miệng”. Mà khi bà “xuất bản miệng” thì những câu chuyện ấy lại được tẩm ướp bằng ngữ khí, bằng cảm thán, bằng ngắt nghỉ nhấn nhá, được chắp cánh bằng điệu bộ tay chân, bằng ánh mắt điệu cười, nên chúng hấp dẫn người nghe vô cùng.

Bà kể chuyện năm 1967, đi vào đất lửa Vĩnh Linh cùng đoàn làm phim Vĩ tuyến 17, chiến tranh nhân dân của vợ chồng đạo diễn Joris Ivens – Marcellin Loridan. “Bà Marcellin nghiện thuốc lá nặng, ngày hút hết ba gói Gaulois. Mấy thằng Việt Nam mình, lái xe, quay phim nọ kia, thỉnh thoảng thèm thuốc lá điếu là ra cười cười ve vãn: “Madam, madam”. Rút ra cho một điếu, xong. Một hôm mụ lại muốn thử thuốc lào của chúng nó, vớ cái điếu cày, rít lấy rít để, rít xong mụ nằm lăn quay trên nền địa đạo, mắt nhắm nghiền, bọt mép sùi ra, người giật giật. Bà biết là không sao đâu nhưng cứ kêu ầm lên: Tuấn – một quay phim của đoàn – cấp cứu, cấp cứu! Thằng Tuấn lao vào, ôm chặt mụ Marcellin, xốc lên. Mụ càng ngoặt ngoẹo”. Bà tủm tỉm cười: “Lão Joris năm ấy già rồi, lại bệnh hen, làm ăn gì nữa, bà biết thế nên càng hô to: Tuấn, xốc mạnh lên! Xốc đi! Nó xốc vài cái thì mụ Marcellin mở mắt, tỉnh queo, coi như không có chuyện gì”. Mọi người được dịp cười như nắc nẻ với câu chuyện của bà lão 93 tinh quái.

Bà kể chuyện chồng bà, đại tá pháo binh Quân đội Nhân dân Việt Nam Nguyễn Phước Hoàng, dòng hoàng tộc Huế, người tham gia trận đánh trên đồi A1 chiến trường Điện Biên Phủ, cựu Chủ nhiệm bộ môn Thủy khí động lực học của Đại học Bách khoa Hà Nội: “Khi bà mở phòng tranh kinh doanh, ông ấy không đồng ý, bảo đấy là kinh tế tư nhân, tư bản bóc lột. Bà kệ không nói gì. Có một hôm ông ấy đưa bà một tờ giấy gấp tư, mở ra thì thấy viết: “Phượng ơi, từ ngày Phượng đi theo đường con buôn, Phượng đã xa rời sách”. “Trời đất, mình đọc sách còn nhiều hơn ông ấy, có ngày nào không đọc, vậy mà nói con đường đến thư viện mỗi lúc một xa hơn. Mấy lão già gàn lãng mạn. Không chấp”.

Bà vừa kể mà vừa cười chảy nước mắt. “Mấy lão già gàn lãng mạn” mà bà Xuân Phượng nói ấy, ngoài người chồng quá cố của bà, còn có cả trung tá Đặng Văn Việt, nổi danh “Hùm xám đường số 4” trong thời kháng Pháp. Bà bảo: họ là một thế hệ lãng mạn. Phải lãng mạn lắm mới dám bỏ tất cả gia thế lớn, học vấn cao, tiền đồ rộng để đi lên rừng làm kháng chiến mà không biết liệu còn có ngày về.

Rồi bà kể chuyện kinh doanh phòng tranh Lotus: cả một kho dật sự tích lũy suốt ba mươi năm. Ai đã đọc hồi ký Gánh gánh gồng gồng hẳn còn nhớ họa sỹ Trương Đình Hào, người mà bà Xuân Phượng đã phải cất công về tận Bắc Giang để lôi ra từ một căn nhà nát, mua toàn bộ những bức tranh ông vẽ mà không một ai mua, thậm chí không một ai biết đến. Mua tranh, rồi đưa Trương Đình Hào cùng các tác phẩm của ông đi triển lãm nhiều lần ở nước ngoài, làm thay đổi toàn bộ cuộc đời nghệ thuật của người họa sỹ. Trong Gánh gánh gồng gồng bà Xuân Phượng chỉ nhắc một trường hợp này, nhưng trong thực tế thì nhiều lắm.

Bà kể, có người thì bà tìm đến, có người lại tìm đến bà. Thường thì họ là những sinh viên vừa ra trường, những họa sỹ vô danh, và họ đói khát thiếu thốn theo nghĩa đen. Tất nhiên là bà giúp đỡ họ. Và nếu thấy tranh của họ có cá tính hoặc có sự hứa hẹn phát triển theo hướng tốt, thì bà mua, rồi góp ý khuyến khích để họ tiếp tục sáng tác, rồi tổ chức mở triển lãm cho họ ở cả trong nước và trên thế giới. Cứ dần dần như thế, những họa sỹ ấy nay đều đã trở thành những họa sỹ sáng giá, những tên tuổi bán tranh rất tốt trên thị trường mỹ thuật đương đại. Tốt đến nỗi mà họ rồi không bán cho bà Lotus nữa, mà bán cho những người khác, những người sẵn sàng mua tranh với giá cao hơn giá mà bà có thể mua. Bà bảo, đó là sự nghiệt ngã tất yếu của cái nghề phòng tranh này, mà đã làm nghề thì phải biết chấp nhận. “Không phải bà không có đủ tiền để mua tranh của họ với cái giá đó. Nhưng mắc gì phải chạy theo? Tiền ấy bà dành để tiếp tục… nuôi những đứa khác”. Bà Xuân Phượng nói với tôi như vậy, rồi cười. Sảng khoái.

Tôi mất ba ngày để thực hiện tiền kỳ bộ phim ngắn về bà Xuân Phượng. Ba ngày bà cháu bên nhau, nhưng có biết bao câu chuyện và biết bao ấn tượng về bà mà tôi thâu nhận. Tôi trở về Hà Nội trong một chuyến bay đêm. Sáng hôm sau mở điện thoại đọc thấy tin nhắn của bà: “Con về an toàn không? Con vào có mấy hôm, lại mải công việc nên thực ra bà cháu cũng không nói được gì nhiều lắm. Lần sau con vào dài ngày hơn, thư thả, mình sẽ chém gió với nhau nhiều hơn nhé. Bà cũng không còn nhiều thời gian nữa con ạ”. Chỉ vậy thôi mà thấy xốn xang trong trí tưởng tôi, rất thực, hình ảnh một bà Xuân Phượng lúc nào cũng lịch lãm, tươi cười, hóm hỉnh, hào sảng, và đầy sức sống, dù đã ngoại cửu thập, dù đã đi xuyên hai thế kỷ đầy gian lao.

HOÀI NAM