Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

THƠ CA HOA KỲ TƯỞNG NIỆM 9.11

Nguyễn Đức Tùng
Thứ sáu ngày 11 tháng 9 năm 2015 4:05 PM


Buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, bạn làm gì?
Tôi đến trình diện nhiệm sở mới ở Richmond. Cầm tấm thẻ căn cước vừa nhận chưa kịp gắn vào túi áo ngực, tôi đi qua một hành lang dài kê la liệt những chiếc băng-ca chuyển tới sau tai nạn xe hơi. Trên màn truyền hình ở cuối hành lang, tôi kịp nhìn thấy một tòa nhà cao tầng bốc cháy, đổ sập xuống, khói đen bốc mù mịt, đường phố nhiều người chạy ngược chiều, hốt hoảng.
Lại một bộ phim trinh thám của Hollywood, tôi thầm nghĩ, quay đi. Nhưng có một điều gì rất lạ, tồi tệ, tôi chưa bao giờ gặp thoáng qua trên mặt người xem. Tôi bước lại gần màn hình. Không khí chung quanh lặng lẽ, ngay cả những người bị thương sau tai nạn cũng ngừng rên la. Hồi đó tôi mới tham gia vào hai nhóm sinh hoạt trên email, một của bạn học cũ cùng trường người Canada, một của bạn bè văn nghệ người Việt mới quen ở hải ngoại. Những ngày, những tuần lễ tiếp theo, chúng tôi không ngớt sống trong bầu không khí gây ra bởi hình ảnh chuyến bay bị không tặc, hình ảnh tòa tháp đôi Nữu Ước bị đánh sập, những người lính cứu hỏa, những thây người cháy đen, những cột khói, gạch đá ngổn ngang. Trong thời kỳ ấy bên cạnh điện thoại, thư từ, trong những gặp gỡ riêng tư, xúc động, cãi vã, chúng tôi thỉnh thoảng đọc thơ. Có những bài thơ đã giúp chúng ta sống qua giây phút ấy, hoặc giúp gợi nhớ về một thời kỳ đau thương và khó khăn của người dân Hoa Kỳ, và của thế giới, và về những cuộc chiến tranh tiếp theo ngay sau đó, trên những đất nước khác.
Thơ Mỹ cùng thời cũng nở rộ.
Những bài thơ sau đây rút trong tuyển tập "Poetry After 9/11", biên tập bởi các nhà thơ Dennis Loy Johnson và Valerie Merians, NXB Melville House, New York, năm 2002, gồm thơ của các thi sĩ ở New York, viết về sự kiện làm thay đổi thế giới này. The World Trade Center, David Lehman; The Window at The Moment of Flame, Alicia Ostriker; In The Burning Air, Jean Valentine; Missing Supper, Tim Suermondt.
(còn tiếp)
Nguyễn Đức Tùng
TOÀ THÁP ĐÔI
David Lehman
.
Tôi chưa bao giờ thích Trung tâm thương mãi
Nó càng vươn cao tôi càng chê bai cười cợt
Cũng như nhiều người Nữu Ước
Tòa tháp đôi quả là thứ kiến trúc cồng kềnh
Thiếu mỹ thuật, thiếu phong cách thanh tao
Của Empire cao ngất, cũng không bằng
Tòa nhà Chrysler, được mọi người yêu mến,
Với đỉnh nhọn mỹ miều, duyên dáng
Trung tâm thương mãi đúng là sai lầm
Điển hình cho kiến trúc kiểu Mỹ
Nó đứng chễm chệ như thế hai mươi lăm năm trời
Cho đến một ngày, vào buổi chiều thứ Sáu, tháng Hai
Bom nổ, tòa tháp đôi kia, đổ nát
Trở thành biểu tượng của chúng ta, của đất nước, như bức
Tượng Nữ thần Tự do. Tất cả thái độ của tôi
Bắt đầu thay đổi. Tôi yêu cách nó hiện ra
Trong tầm mắt, khi bạn lái xe qua đường số Sáu
Từ bất cứ ngã rẽ nào, cái cách đỉnh cao
Của tháp đôi biến mất, trong bầu trời trắng xóa
Về phương Đông, khi bạn bắt đầu qua sông Hudson
Chạy vào thành phố, băng ngang cầu George Washington
(1996)
CỬA SỔ, KHI LỬA BÙNG LÊN
Alicia Ostriker
..
Tất cả xảy ra khi tôi đang ở giữa những món đồ chơi
Một xa lộ một căn nhà xếp hộp một xe hơi
Và tất cả những điều này xảy ra ở nơi thật xa mảnh đất
Hàng ngàn và hàng ngàn, hàng triệu và hàng triệu
Bạn biết không - bạn thấy bức hình kiểu này
Người đàn bà bồng đứa trẻ gầy trơ xương
Những người đàn ông khóc thương bên mộ chí
Những tòa nhà bị lửa thổi bùng lên
Đất bỏ hoang thêm, ngày đêm thối rữa
Và tất cả điều này xảy ra khi tôi vừa mua sắm, tôi
Hãy nói thế đi, đang tự do thảnh thơi
Có phải vì thế mà chúng ghét bỏ
Có phải vì thế chúng ghét bỏ tôi
.
TRONG BẦU KHÔNG KHÍ CHÁY BỎNG
Jean Valentine
.
Trong bầu không khí cháy bỏng
Chẳng còn gì
Nhưng trên mặt đất
Hãy để nỗi buồn lan rộng
Một người đàn bà và chiếc muỗng
Một chiếc muỗng gỗ
Và lồng ngực của bà, một cái bát rỗng không
Tan vỡ
.
BỮA ĂN KHÔNG BAO GIỜ ĐẾN
Tim Suermondt
..
Đừng than khóc quá lâu
Cho người không trở lại
Với chúng ta trong bữa ăn chiều
Hãy an tâm, nơi nào họ tới
Họ đều nấu ăn
Giản dị, tràn đầy dinh dưỡng, đi tới
Đi lui, mang tạp dề rộng rãi
In toàn chữ cái
NỒI NƯỚC CÓ SÔI, TÌNH BẠN MỚI DỒI DÀO
Họ để dành chỗ ngồi cho ta
Bên bàn ăn của họ, háo hức chờ tới lúc
Dẫn chúng ta vào thăm bếp núc
Kể cho ta nghe huyền thoại, trả lời
Trôi chảy từ đôi môi ngọt ngào như rượu đỏ
Thổi tắt nến hồng, bật lửa trên lò bếp
Ôi những ngọn nến hồng những bếp lò xinh đẹp, và chúng ta xinh đẹp biết dường nào.