Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Khoa trương trong tác phẩm của Mạc Ngôn

Nguyễn Ngọc Kiên
Thứ hai ngày 4 tháng 8 năm 2014 8:55 PM

1.                 Vài nét khái quát về Mạc Ngôn

Mạc Ngôn (莫言 nghĩa là không nói) tên thật là Quản Mô Nghiệp (管谟业), sinh tại huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.

Ông đã phải nghỉ học tiểu học giữa chừng do Cách mạng văn hoá và phải tham gia lao động nhiều năm ở nông thôn, chăn dê ngoài đồng, luôn bị đói khát và cô đơn. Ông nhập ngũ năm 1976. Đến năm 1984, ông trúng truyển vào khoa văn thuộc Học viện Nghệ thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986. Tháng 10 năm 1987 ông chuyển ngành, sang hoạt động trên lĩnh vực báo chí và viết văn chuyên nghiệp. Năm 1981 ông bắt đầu công bố tác phẩm và đến nay, ông đã cho in 10 truyện dài, 20 truyện vừa, hơn 60 truyện ngắn và 5 tuyển tập những bài ký, phóng sự, tùy bút..., tổng cộng trên 200 tác phẩm. Hiện nay, ông là sáng tác viên bậc 1 của Cục chính trị - Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.

 Năm 2012 Mạc Ngôn đoạt giải Nobel văn chương. Ủy ban Nobel cho biết các tác phẩm của ông Mạc Ngôn được sáng tạo theo phong cách độc đáo, kết hợp chủ nghĩa hiện thực huyền ảo với các câu chuyện dân gian, lịch sử và văn học đương đại. (Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

2.     Khái niệm về khoa trương

Khoa trương (hyperbole) là một từ có xuất xứ từ tiếng Hi Lạp, được giải thích trong từ điển Oxford: “Lời nói cường điệu nhằm một tác động đặc biệt và không để được hiểu theo đúng nghĩa đen”. Ví dụ: Tôi đã mời hàng triệu người đến dự bữa tiệc.

Bàn về khoa trương tác giả Đào Thản cho rằng, “Phóng đại (còn gọi: khoa trương, thậm xưng, ngoa ngữ, cường điệu) là dùng từ ngữ hoặc cách diễn đạt để nhân lên gấp nhiều lần những thuộc tính của khách thể hoặc hiện tượng nhằm mục đích làm nổi bật bản chất của đối tượng cần miêu tả, gây ấn tượng đặc biệt mạnh mẽ. Khác hẳn với nói điêu, nói khoác về tính chất, động cơ và mục đích, phóng đại không phải là xuyên tạc sự thật để lừa dối. Nó không làm cho người ta tin vào điều nói ra, mà chỉ cốt hướng cho ta hiểu được điều nói lên. [2, tr.2]

Theo chúng tôi thì, khoa trương hay còn gọi là nói quá, là cường điệu quy mô, tính chất, mức độ của những sự vật, hiện tượng miêu tả. Khoa trương có tác dụng làm nổi bật những ý cần diễn đạt. Tuy nói quá nhưng vẫn phản ánh được và đúng bản chất của sự vật hiện tượng. Khoa trương luôn mang đậm phong cách và dấu ấn của cá nhân hoặc cộng đồng sử dụng ngôn ngữ.

 Chẳng hạn, Mạc Ngôn khi viết về một bữa tiệc đầy tháng của đứa con gái trong truyện “Ếch”:

(1) 我自己列出一个菜谱,每桌八凉碟、八热盘,最后一盆汤。 袁腮看罢,笑道:兄弟,你这一套不行。你请的是一群农民,个个都是麻袋肚子这点东西,刚够填牙缝的。你听我的,别弄这么多样数,只管大块肉、大碗酒地往 上招呼,庄户人赴宴,好的就是这个。你弄得那么精致,一人一筷子就没了,没得吃,干候着?那可就丢了大丑了。《蛙》

(Tôi là người quyết định thực đơn: Mỗi mâm tám món nguội, tám món nóng và cuối cùng là canh. Viên Tai xem qua thực đơn, nói:

- Người anh em à, cậu đãi thế này không xong đâu. Khách mời của cậu đều là nông dân, bụng ai cũng chứa được cả bao tải thức ăn. Những món này chỉ vừa đủ dính răng thôi. Cậu hãy nghe tớ, đừng có bày đặt nhiều món làm gì, chỉ cần cục thịt to, chén rượu lớn là được rồi. Cậu bày đặt sang trọng quá nhưng lại ít, mỗi người gắp một đũa là sạch veo, sau đó thì làm sao? Mất mặt lắm.) (Ếch)

đây, tác giả đã khoa trương các chi tiết “bụng chứa được cả bao tải thức ăn”, “những món này chỉ vừa dính răng”, “mỗi người gắp một đũa là sạch veo”. Những chi tiết trên đều không đúng với thực tế, người nghe cũng không tin là như vậy, nhưng nó lại gây được ấn tượng hết sức mạnh mẽ. Nếu viết: “Những người nông dân ăn rất khỏe, nếu làm ít thức ăn họ chỉ ăn một lát là hết” thì đoạn văn sẽ hết sức bình thường và trở nên nhàm chán, khó lôi cuốn người đọc.

Hoặc, biết là vô lý nhưng cộng đồng người sử dụng tiếng Hán vẫn chấp nhận lối nói như thế này:

(2) 们说我们双脊的肉和内脏里含着一种沙门菌,这种菌在三千度的高温下还活蹦乱跳放到锅里煮,煮三年也煮不死它。《牛》

(Họ bảo rằng trong thịt và nội tạng của con (trâu) Song Tích của chúng tôi có chứa một loại vi khuẩn vô cùng độc hại [nguyên văn: vi khuẩn sao – mân], trong nhiệt độ ba nghìn độ C gì đó vẫn còn có thể chạy nhảy tung tăng, bỏ vào nồi đun thì cho dù có đun ba năm cũng không giết được nó.)    (Trâu thiến)

Thật không có một cơ sở khoa học nào để nói rằng, đun ở nhiệt độ 3000 độ C và trong vòng ba năm mà vi trùng cũng không chết. Nhưng không cần giải thích thì cả người viết người đọc đều tin rằng loại vi trùng này sống rất dai, có đun nước sôi cũng không tiêu diệt được chúng. Đó mới là điều cần nói lên.

Nói chung, người viết hoàn toàn tán đồng với các quan điểm về khoa trương đã nêu trên. Người viết cũng rất tâm đắc với nhận xét của Đào Thản khi tác giả ví von hình ảnh: “Phóng đại được dùng như một biện pháp cần thiết, không thể thiếu trong nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau, chỉ trừ phong cách ngôn ngữ khoa học. Tuy nhiên trong khoa học lại không thể thiếu các phương tiện và thiết bị phóng đại như kính hiển vi và các khí cụ quang điện khác.” [2, tr.2]

Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, “phóng đại” của Đào Thản chỉ có nghĩa là làm cho sự vật to ra, như vậy là chưa đủ. Khi nói “khoa trương” thì bản thân nó đã bao hàm cả khoa trương phóng to và khoa trương thu nhỏ. Khoa trương luôn mang trong mình nó hai chức năng: chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm hay chức năng thẩm mĩ.

3.     Phân loại khoa trương trong tác phẩm của Mạc Ngôn

Khoa trương trong các tác phẩm của Mạc Ngôn hết sức đa dạng và phong phú. Do lượng sách của ông rất đồ sộ nên chúng tôi không có điều kiện khảo sát hết các tác phẩm. Việc này đòi hỏi nhiều thời gian và dành cho những công trình lớn như luận văn, luận án, sách chuyên khảo. Trong khuôn khổ một bài báo, chúng tôi chỉ khảo sát hai tiểu thuyết là: “Báu vật của đời”, “Ếch”, một truyện dài: “Trâu thiến”, hai truyện ngắn: “Mĩ nhân băng tuyết” và “Đại phong”. Việc làm này là ngẫu nhiên và chúng tôi có nhận xét, hầu như trong tiếng Trung Quốc có bao nhiêu kiểu khoa trương thì tác phẩm của Mạc Ngôn cũng có bấy nhiêu kiểu. Người đọc rất thích thú khi ông “khoa trương”  tài năng của một bác sĩ sản phụ:

(3) 姑姑感慨地说,那时所有的人都疯了,想想真如一场噩梦,姑姑说,黄秋雅是个伟大的妇科医生,即便是上午被打得头破血 流,下午上了手术台,她还是聚精会神,镇定自若,哪怕窗外搭台子唱大戏,也影响不了她。姑姑说,她那双手真是巧啊,她能在女人肚皮上绣花。《蛙》

(Nhưng Hoàng Thu Nhã vẫn là một bác sĩ sản phụ vĩ đại, thậm chí buổi sáng bị đánh cho sứt đầu mẻ trán thì buổi chiều bà ấy vẫn đứng trên bàn mổ, bà ta vẫn tập trung tinh thần. Cho dù lúc ấy bên ngoài cửa sổ có bom rơi đạn nổ thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến con dao mổ trên tay bà ta. Đôi tay Hoàng Thu Nhã sao mà linh! Bà ta có thể thêu cả một đóa hoa trên da bụng của sản phụ!)  (Ếch)

Với nguồn ngữ liệu thu thập được, chúng tôi chủ trương phân loại khoa trương trong tác phẩm của Mạc Ngôn thành các loại như sau:

3.1. Phân loại khoa trương theo nghĩa

Trong loại này có hai tiểu loại;

 (1) Khoa trương phóng to

Là cố ý làm cho sự vật to ra, đem đặc trưng, số lượng, trạng thái, tính chất, đặc trưng của sự vật làm cho nhiều lên, nhanh hơn, cao lên, dài ra, mạnh hơn. Ví dụ:

(4) 偷吃时还不敢咀嚼,娘听到咀嚼粮食的声音像鞭炮一样响。《丰乳肥臀》

(Khi ăn vụng không dám nhai vì tiếng nhai giòn như pháo tép.) (Báu vật của đời)

   (5) 时候的牛,大肉牛,用地瓜、豆饼催得油光水滑,走起来晃晃荡荡,好似一座肉山,一头牛能出一千多斤肉。《牛》

(Ngày ấy, trâu được mọi người cho ăn khoai lang, ăn bánh đậu nên mập lắm, lông láng mượt, dáng đi lặc lè vì chân đỡ không nổi thân thể quá nặng, con nào con nấy chẳng khác một ngọn núi, mỗi con trâu có khi đến năm trăm kí thịt.) (Trâu thiến)

 (6) 计划 生育不搞不行,如果放开了生,一年就是三千万,十年就是三个亿,再过五十年,地球都要被中国人给压偏啦。《蛙》

(Sinh đẻ có kế hoạch không thể không thực hiện, cứ đẻ thoái mái mỗi năm tăng ba mươi triệu nhân khẩu, mười năm là ba trăm triệu, cứ thế năm mươi năm nữa trái đất này bị người Trung Quốc đè cho biến dạng méo mó mất thôi.)   (Ếch)

(7) 咱两个没有血缘……来吧,干个热火朝天……闯进来……谁敢?让那些婊子养的进来试试……我通通捏死他们……马粮哥马粮哥你他妈的真是人四两屌半斤。《丰乳肥臀》

(Lại đây nào, ai dám? Bọn đốn mạt thử vào đây xem, tôi thì bóp chết tươi chúng nó! Anh Mã Lương, anh Mã Lương ơi, anh đúng là xấu dây tốt củ, người bốn lạng, c… nửa cân!) (Báu vật của đời)

 (2) Khoa trương thu nhỏ

Là thu nhỏ sự vật; tức là cố ý đem số lượng, đặc trưng, tác dụng, mức độ của sự vật làm cho nhỏ đi, ít đi, chậm lại, thấp đi, ngắn lại hoặc yếu đi. Ví dụ:

(8) 鲁西和小鲁西也想弄景,但它们的小鸡鸡像一根红辣椒。它们往母牛背上跳,母牛就回头顶它 们。《牛》

(Lỗ Tây lớn và Lỗ Tây nhỏ rất muốn làm chuyện bậy bạ nhưng chẳng ra làm sao cả vì “cái ấy” của chúng chỉ bằng quả ớt nên vừa nhảy lên lưng bọn trâu cái thì đã bị bọn này quay lại húc cho nhừ tử.) (Trâu thiến)

(9) 这是老爷车,跑得比老母猪还慢。《丰乳肥臀》

(Xe này già quá rồi, ì ạch như con lợn nái ấy.) (Báu vật của đời)

(10) 大堤曲曲弯弯,像条大蛇躺在堤上。《大风》

(Con đê lớn ngoằn ngoèo, tựa như một con rắn lớn trên mặt đất.) (Đại phong)

3.2. Phân loại khoa trương theo hình thức

Có thể chia khoa trương của Mạc Ngôn thành hai loại: khoa trương trực tiếp và khoa trương gián tiếp.

(1) Khoa trương trực tiếp:

 Là khoa trương mà không sử dụng bất cứ biện pháp tu từ nào, còn được gọi là khoa trương “thuần túy”. Ví dụ:

(11) 当时,我们说他驾机俯冲到我们村东头的西瓜地里,伸手摘了一个西瓜,一抖翅膀又钻上了云端。《蛙》

(Ngày ấy, bọn tôi kháo với nhau rằng, Vương Tiểu Thích từng lái máy sà xuống ruộng dưa ở đầu thôn chúng tôi, đưa tay ra khỏi buồng lái và hái một quả dưa đang nằm trên đất và sau đó thì vút thẳng lên mây.) (Ếch)

 (12) 说碰上难产她们就会把手伸进产道死拉硬拽,她们甚至把胎儿和*一起从产道里拖出来。《蛙》

(Cô nói, mấy “lão bà bà” này không có một chút kiến thức nào về giải phẫu học, về căn bản là không hiểu một tí gì về kết cấu sinh lí của phụ nữ, gặp phải những ca đẻ khó, họ thọc tay vào trong lỗ đẻ mà khuấy, thậm chí là cùng lúc lôi cả thai nhi và tử cung ra ngoài!) (Ếch)

(13) 正好有农民赶着牛在那耘地,铁饼不偏不倚恰好落在牛角上,把 根牛角齐齐地斩断。《蛙》

(…Chiếc đĩa rơi đúng sừng một con trâu đang cày và tiện đứt ngọt lịm sừng con trâu.) (Ếch)

(2) Khoa trương gián tiếp

Là khoa trương phải sử dụng các biện pháp tu từ khác để thực hiện. Chẳng hạn, các biện pháp tỉ dụ, ẩn dụ, hoán dụ, nhân cách hóa, vật cách hóa v.v...; vì vậy, nó còn được gọi là khoa trương “dung hợp”.

(a) Sử dụng so sánh tu từ

Theo các tác giả Đinh Trọng Lạc, Cù Đình Tú thì: “So sánh tu từ là sự đối chiếu về hai sự vật (về tính chất, trạng thái sự việc) A và B cùng có một dấu hiệu chung nào đó giống nhau. A là sự vật chưa biết, nhờ qua B mà người đọc biết A hoặc hiểu thêm về A. So sánh tu từ còn gọi là so sánh hình ảnh, đó là một sự so sánh không đồng loại, không cùng một phạm trù chung, miễn là một nét tương đồng nào đó về mặt nhận thức hay tâm lí”.

Trong loại này có mấy tiểu loại sau:  

- So sánh có từ so sánh. Ví dụ:

(14) 他大女婿瘦得一只螳螂。说前几任炊事员刚到公社食堂时都很瘦, 但不到一年,身体就用气吹起来一样,胖得走了形。《牛》

(Gã con rể này gầy như một con bọ ngựa. Nghe nói những người đã từng làm cấp dưỡng ở nhà ăn công xã đều gầy như bọ ngựa cả, nhưng không đầy một năm sau, ai ai cũng như được bơm căng không khí, mập đến độ đi không nổi mà phải lăn.) (Trâu thiến)

(15) 姑姑说她 们用擀面杖挤压产妇的肚子。她们还用破布堵住产妇的嘴巴,仿佛孩子会从嘴巴里钻出来一样。《蛙》

(Cô tôi còn nói, họ thường dùng chày cán bột đè lên bụng sản phụ, lại còn dùng những tấm giẻ rách nhơ bẩn nhét vào miệng sản phụ trông chẳng khác nào họ sơ đứa bé sẽ tòi ra từ miệng của người mẹ vậy.) (Ếch)

(16) 张点说我们走得还不如蛆爬得快。不是我们走不快,是双脊走不快。《牛》

(Nói không quá rằng, chúng tôi không thể đi nhanh hơn giun bò, không phải chúng tôi không muốn đi nhanh mà là Song Tích không thể đi nhanh.) (Trâu thiến)

-  So sánh với hệ từ “” (là)

Trong văn Mạc Ngôn, hệ từ  “(là) có thể được thay thế cho những từ so sánh, và đó là câu biểu thị so sánh thuần túy. Chẳng hạn:

(17) 论从哪个部位看她都不像一个五十多岁的女人, 朵冷藏了半个世纪的花朵。《丰乳肥臀》

 (Dù nhìn ở góc độ nào thì chị ta cũng không giống một phụ nữ ngoài 50. Chị là một bông hoa ướp lạnh suốt một phần hai thế kỉ.) (Báu vật của đời)

(18) 南极最高峰上未被污染的一块雪。雪肌玉肤,冰清玉洁,真正的,不搀假的。《丰乳肥臀》

(Chị là khối tuyết trên đỉnh núi ở châu Nam cực, không hề vẩn bụi. Trong ngọc trắng ngà, hoa nhường nguyệt thẹn, một cái đẹp đích thực.) (Báu vật của đời)

Ở đây, (là) vốn là một động từ phán đoán, cho nên khi được sử dụng trong cấu trúc này, cả cấu trúc còn mang sắc thái khẳng định vốn có của động từ. Tuy nhiên, hình thức so sánh tu từ dùng “”  cũng khác với phán đoán logic có công thức “S P” (S là P). Trong các câu trên ta phải hiểu là “chị như một bông hoa ướp lạnh…”, “chị như một khối tuyết trên đỉnh Nam cực…”.

-  So sánh kết hợp với bài tỉ

“Bài tỉ” là một biện pháp tu từ sử dụng liên tiếp ba hoặc hơn ba câu hoặc thành phần câu có kết cấu tương đồng hoặc tương tự, ngữ khí nhất thể, ý nghĩa có quan hệ mật thiết. Mục đích là tăng cường khí thế, nâng cao dần về ý nghĩa, làm sâu sắc tình cảm của người nói. Đây là một phép tu từ giàu sức biểu hiện, đặc biệt khi sử dụng để khoa trương. Ví dụ:

(19) 我的眼前, 只有两只宝葫芦一饱满油滑, 鸽子一样泼丰满, 瓷花瓶一润泽光洁的乳房《丰乳肥臀》

 (Trước mắt tôi chỉ có hai bầu vú đầy đặn mượt mà như hai quả hồ lô, sinh động như đôi chim bồ câu, bóng đẹp như hai bình hoa sứ.) (Báu vật của đời)

(b) Sử dụng nhân cách hóa

Nhân cách hóa là một biện pháp tu từ lấy vật bao gồm vật thể, động vật, tư tưởng hoặc khái niệm trừu tượng làm cho chúng có diện mạo, cá tính, tính cách, hoặc tình cảm.

Nhân cách hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu không phải con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư thái độ của mình.

Có mấy tiểu loại chính sau:

- Nhân cách hóa động vật. Ví dụ:

 Hình ảnh đàn cá dưới sông qua ngòi bút hóm hỉnh của Mạc Ngôn cũng biết rung động, cũng biết bày tỏ cảm xúc trước vẻ đẹp của tạo hóa:

(20) 鱼儿欢快又感动地啄着你的乳头,你的双乳照亮了幽暗的水面。《丰乳肥臀》

(Đàn cá nhỏ vui vẻ và cảm động đụng vào vú chị. Hai gò vú làm sáng bừng mặt nước.) (Báu vật của đời)

- Nhân cách hóa thực vật

 Mạc Ngôn miêu tả cảnh đồng quê vùng đông bắc Cao Mật trước cơn dông bằng thủ pháp nhân cách hóa. Tất cả cây cỏ, sinh vật cũng như người đang chuyển động, đang quẫy đạp:

(21) 堤下的庄稼像接到命令的士兵,一齐倒伏下去。河里的水飞起来红翅膀的鲤鱼像一道道闪电在空中飞。《大风》

(Hoa màu dưới chân đê như những binh sĩ đang nhận lệnh, nhất tề đổ rạp xuống. Nước sông chồm lên, cá chép vây đỏ bay trong không trung như những luồng điện.)(Đại phong)

- Nhân cách hóa sự vật

(22) 我想, 他大概把我,把他自己, 车子, 还没有苏醒的田野全忘却吧?

(Tôi nghĩ, phải chăng ông đã hoàn toàn quên tôi, quên bản thân mình, quên chiếc xe và quên cả cánh đồng vẫn còn đang ngái ngủ này.) (Đại phong)

    (23) 老金终于筋疲力尽地被他摆平了, 他不顾一切地把头扎到她的怀里, 深深地把 她的乳头吸进口腔, 那股贪婪的劲头儿, 似乎要把她的整个乳房生吞掉一。《丰乳肥臀》

                             (Lão Kim cuối cùng cũng kiệt sức …, cái vẻ tham lam ấy dường như muốn nuốt chửng cả bộ ngực của cô.) (Báu vật của đời)

(24) 杜大爷背靠着铁门,浑身哆嗦,哆嗦得很厉害,哆嗦得铁门都哆嗦。《牛》

 (Ông Đỗ vẫn ngồi im, dựa lưng vào cổng sắt, toàn thân đang run, không phải run nhẹ mà run lên bần bật, run đến nỗi cái cổng bằng sắt cũng run theo.) (Trâu thiến)

 (c) Vật cách hóa

Vật cách hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta dùng một hình thức di chuyển thuộc tính, dấu hiệu ngược lại với nhân hóa, tức là những thuộc tính, dấu hiệu của con người, nhằm mục đích châm biếm đùa vui và nhiều khi qua đó để thể hiện tình cảm, thái độ sâu kín của mình. Ví dụ:

(25) 他第三次感到自己在空中飞行。《大风》

      (Lần thứ ba nó cảm thấy mình bay trong không trung.) (Đại phong)

(26) 她大步流星,扁担颤悠悠,两只水桶上下跳动,好像要飞起来似的。《牛》

(Nói xong thì cô ấy quảy thùng nước đi mất, bước chân dài ngoằng thoăn thắt. Đôi thùng nước đu đưa như có đôi cánh chực bay lên trời.) (Trâu thiến)

(d) Sử dụng hoán dụ

Trần Vọng Đạo trong修辞发凡》“Tu từ học phát phàm” lần đầu tiên đã đưa ra định nghĩa về phép hoán dụ như sau: “Sự vật được nói tới tuy rằng không có điểm tương tự với sự vật khác, giả sử khi giữa chúng còn có quan hệ không thể tách rời, tác giả có thể mượn tên của sự vật có quan hệ đó thay cho sự vật được nói tới. Cách mượn như vậy gọi là phép hoán dụ tu từ”. Nghĩa là, không nói thẳng ra tên người hoặc sự vật mà mượn tên của sự vật có quan hệ mật thiết với nó thực hiên phép thay thế.

Phép hoán dụ tu từ có nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên, hoán dụ khoa trương trong tác phẩm Mạc Ngôn sử dụng tên bộ phận để thay cho toàn thể. Chẳng hạn:

(27) 你休想,王仁美把一面镜子摔在地上,大声喊叫着,孩子是我的,在我的肚子里,谁敢动他一根毫毛,我就吊死在谁家门槛上。《蛙》

(…con là của tôi, nó nằm trong bụng tôi. Ai dám động đến một sợi lông của nó tôi sẽ treo dây lên xà nhà của người đó thắt cổ chết.) (Ếch)

Ở đây, “sợi lông chân” thay cho “cả cơ thể” là hoán dụ bộ phận thay cho toàn thể. Xét trường hợp sau:

(28) 时候我正处在爱热闹的青春前期,连村子里的狗都讨厌我。《牛》

(Thời ấy tôi còn là một đứa trẻ, chỉ thích xem những trò vui, thích tham gia vào những chuyện ồn ào, ngay cả chó trong thôn cũng chẳng ưa gì tôi.) (Trâu thiến)

 Theo chúng tôi, trường hợp này cũng là hoán dụ, “chó trong thôn” là bộ phận thay cho “cả thôn” là toàn thể; ý nghĩa của câu là “cả thôn đều ghét tôi”.

3.3. Phân  loại khoa trương theo mức độ

Căn cứ vào mức độ khoa trương (đã đến mức phi lí hay chưa đến mức phi lí), khoa trương của Mạc Ngôn có thể thành hai loại:

(1)       Khoa tương ở mức độ thấp

Là cách nói quá đi so với cái có thật trong thực tế; tuy có thể nhân lên tới hàng trăm hàng nghìn lần, thậm chí hàng vạn lần, nhưng vẫn chưa đến mức phi lí, vẫn có thể chấp nhận được. Sở dĩ như vậy là vì, nghe mãi thành quen tai, cả người nói và người nghe không ai nghĩ rằng mình đang khoa trương. Chẳng hạn, trong khẩu ngữ người ta vẫn hay sử dụng các cụm từ sau để khoa trương: 伟大无穷 (vô cùng vĩ đại), 难极了 (cực kì khó khăn), 百端待 / 日理万机 (trăm công nghìn việc), 佩服得五体投 (phục sát đất). Ví dụ:

(29) 她的胳膊力大,我几乎是脚不点地地跟着她跑。《牛》

 (Cánh tay cô ta lại khỏe vô cùng, tôi chạy theo cô ta mệt đến đứt hơi, chân không bén đất)  (Trâu thiến)
             (30) 姑从此便与这项神圣的工作结下了不解之缘。《蛙》

(Từ đó cô tôi có duyên nợ với cái công việc thần thánh này.) (Ếch)

(31) 姑姑是天才妇产科医生,她干这行儿脑子里有灵感,手上有感觉。见过她接生的女人或被她接生过的女人,都佩服得五体投 。《蛙》

(Phải thừa nhận cô tôi là một bác sĩ sản phụ thiên tài, khi làm việc này hình như trong đầu cô luôn luôn có linh cảm, tay cô có cảm giác. Những người đàn bà từng chứng kiến cô tôi đỡ đẻ đều bái phục cô sát đất.) (Ếch)

(32) 黄秋雅是个伟大的妇科医生,即便是上午被打得头破血 流,下午上了手术台,她还是聚精会神《蛙》

 (Nhưng Hoàng Thu Nhã vẫn là một bác sĩ sản phụ vĩ đại, thậm chí buổi sáng bị đánh cho sứt đầu mẻ trán thì buổi chiều bà ấy vẫn đứng trên bàn mổ, bà ta vẫn tập trung tinh thần.) (Ếch)

Thông thường ta nói: nhân vật thiên tài, nhà văn thiên tài, nhà khoa học vĩ đại, lãnh tụ vĩ đại chứ bình thường không ai nói: bác sĩ sản phụ vĩ đại hay bác sĩ sản phụ thiên tài. Ở đây rõ ràng có dụng ý của tác giả nhằm ca ngợi bàn tay vàng của bác sĩ sản phụ Hoàng Thu Nhã.

 (2)   Khoa trương ở mức độ cao

Là cách nói nói quá sự thật một cách quá đáng, đến độ phi lí không thể tin được. Trong giao tiếp, người ta hay sử dụng các cụm từ và các thành ngữ khoa trương sau: 不翼而 (không cánh mà bay), 一步登天 (một bước lên giời), 识一丁 (một chữ bẻ đôi cũng không biết), 一天比一世纪长 (một ngày dài hơn thế kỉ),发千钧 (ngàn cân treo sợi tóc), 头六臂 (ba đầu sáu tay). Chẳng hạn:

(33) 同志,我要告诉您,您看到的只是我的外表,其实,我有严重的心脏病。我的心被人用刀子戳伤过,只要一干活,心上的疤痕就会崩 裂,那样我就会七窍流血而死。《蛙》

(Tim tôi đã bị người ta dùng dao đâm xuyên qua, chỉ cần làm một việc nhẹ, vết thương trong tim sẽ vỡ ra, thế là tôi sẽ hộc máu mà chết) (Ếch)

(34) 五官上下打量着她说:嫂子,要想跟你亲个嘴,必须踏着梯子!《蛙》

 (…muốn hôn vào môi chị e rằng phải bắc một cái thang!) (Ếch)

(35) 在黑屋子里关了不知道几天几夜,把我们挪到一 个独立小院里,院子里有一棵紫丁香,那个香啊,熏得我头晕。《蛙》

(…trước sân có một cây tử đinh hương, hoa của nó thơm đến độ cô muốn ngất xỉu.) (Ếch)

 (3) Khoa trương ở mức độ tuyệt đối

Là khoa trương ở mức độ rất cao. Có hai trường hợp sau:

(a) Khoa trương về điều không thể xảy ra.

Là khoa trương về những điều trái với thực tế. Ví dụ:

(36) 王胆说陈家庄有人吃了您给配的药,生了龙凤胎!王仁美说。《蛙》

(Vương Nhân Mĩ nói: “Vương Đảm nói, người ở Trần gia trang uống thuốc của cô thì có thai rồng thai phượng.) (Ếch)

(37) 我心里想,这简直太阳从西边升起来了。《牛》

(Tôi nghĩ bụng: Điều đó có khác nào mặt trời mọc ở đằng tây.) (Trâu thiến)

(38) 老董同志脸涨得青紫,说:麻子,你真是狗眼看人低!老董我今天不阉了它我就头朝下走回公社!《牛》

(Lão mặt rỗ kia! Đúng là ông đã dùng mắt chó để nhìn người quá thấp. Lão Đổng này bữa nay không thiến được con trâu này thì sẽ đi ngược đầu về công xã cho ông xem.) (Trâu thiến)

(39) 姐姐说:他要有大出息,圈里那头猪也能变成老虎!《蛙》

Chị gái nói: nó mà thành vĩ nhân thì e rằng con lợn trong chuồng cũng rùng mình biến thành hổ mất thôi!) (Ếch)

      (b) Khoa trương ở mức độ cực cấp 

Khái niệm “cực cấp” chúng tôi dùng ở đây là khoa trương được xếp vào mức độ cao nhất. Loại này thường dùng cho những tính từ “thang độ”. Ví dụ:

(40) 说:毛都没扎全的小东西,也想好事儿!我越想越感到冤枉,白送了18块水果糖,还挨了一个窝心拳。全世界再也找不到比我更傻的人了。《牛》

(Cô ta nói: thằng oắt con lông mọc chưa đủ mà cũng tơ tưởng chuyện ấy rồi sao? Càng nghĩ tôi càng thấy mình oan uổng quá, đã mất toi 18 viên kẹo mà lại nhận được một cú đấm. Thế giới này quả thật không tìm ra người thứ hai ngu ngốc như tôi.)        (Trâu thiến)

(41) 但她在王肝眼里是天下第一美人,说文雅点,这叫 情人眼里出西施;说粗俗点,这叫王八瞅绿豆,看对眼了。《蛙》

(Nhưng trong mắt Vương Can, “Tiểu sư tử” lại là đệ nhất mĩ nhân trên thế gian này, nói văn vẻ một tí thì “trong mắt người đang yêu, em bỗng hóa Tây Thi”.) (Ếch)

(42) 六姐的乳房精美绝伦,宛如两个倒扣的玻璃钵盂,这样的好宝受了伤,真让我心疼欲绝。《丰乳肥臀》

(Cặp vú chị Bảy đẹp tuyệt trần, như hai cái âu bằng pha lê úp sấp.) (Báu vật của đời)

3.4. Phân loại khoa trương theo thời gian

Căn cứ vào thành phần trong câu có thể chia thành hai tiểu loại sau:

(a ) Không có sự tham gia của trạng ngữ thời gian

Người Hán rất thích khoa trương thời gian theo trật tự nghịch, nghĩa là đem sự việc xuất hiện sau nói thành việc xuất hiện trước và ngược lại hoặc đồng thời xuất hiện. Ý nghĩa của câu là “chưa thế này thì đã thế kia” hoặc “vừa mới thế này đã thế kia”. Một trong những câu điển hình là: 李医生给人看病,药方没开,病就好了三分 (Bác sĩ Lí khám cho bệnh nhân, đơn thuốc chưa kê bệnh đã khỏi được ba phần). Tương tự như người Việt nói “chưa ăn đã hết”, “rượu chưa uống đã say”.

Tuy nhiên, khi khảo sát một số tác phẩm của Mạc Ngôn, chúng tôi chỉ thấy cách nói:

(43) 母亲道:正是正是,只要她的手在病人身上一摸,十分病就去了七分。《蛙》

 (Mẹ nói: “Đúng là như thế, chỉ cần cô con đưa tay sờ vào người bệnh là bệnh mười phần đã giảm đi bảy phần!) (Ếch)

(2) Có sự tham gia của trạng ngữ thời gian

Trong câu thuộc loại này có thể có một hoặc hai hành động và thường có sự tham gia của từ ngữ chỉ thời gian. Ví dụ:

(44) 谅你也不敢去,他那把小斧头比风还要快,一下就能把你的狗爪子剁下来广《牛》

(Tôi cũng đoán là cậu không dám gặp hắn. Chiếc rìu trong tay hắn còn nhanh hơn cả gió, e rằng chỉ cần vung lên là mấy chiếc móng chó trên tay cậu không cánh mà bay.)        (Trâu thiến)

(45) 说:刚才你还叫我老人家,怎么转眼说我是小孩子了呢?

(Vừa rồi ông gọi cháu là lão gia, tại sao chỉ chớp mắt lại gọi cháu là đồ oắt con hỉ mũi chưa sạch?)
             
(46) 杜大爷说:队长,要杀要砍随你,但是你不能骂我,我转眼就是奔70岁的人了。《牛》
           (- Đội trưởng! Ông muốn giết muốn xẻo tôi thì tùy, nhưng không được chửi tôi – ông Đỗ tức tối nói – Chỉ cần nhắm mắt rồi mở mắt là tôi đã đủ bảy mươi rồi đấy.)  (Trâu thiến)

Trong các câu trên转眼 (trong nháy mắt) được dùng để khoa trương; thực tế, 转眼có thể được thay thế bằng những từ ngữ tương ứng khác như: 眨眼间,眨眼工夫, 一瞬间,瞬息,瞬时, 一转眼功夫,转眼间 (nháy mắt), hoặc: 立即 (ngay lập tức) . Ví dụ:

(47)北风遒劲,遍地白霜,红日初升,人嘴里喷出的团团热气立即便在眉毛和睫毛上结成霜花。《牛》

(Sương giá bao trùm không gian, mặt trời đỏ mới ló lên ở phía đông, hơi thở vừa thoát khỏi miệng người, ngay lập tức biến thành sương đậu trên lông mày lông mi.) (Trâu thiến)

4.  Dấu ấn văn hóa trong khoa trương của Mạc Ngôn

 Ngôn ngữ ngoài chức năng giao tiếp và là công cụ của tư duy, nó còn là phương tiện để lưu giữ những giá trị văn hóa – lịch sử và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lối nói khoa trương là một thủ pháp tu từ của một ngôn ngữ nên cũng không nằm ngoài qui luật đó. Chẳng hạn, trong “Trâu thiến”, Mạc Ngôn viết:

(48) 时可没想到是食物中毒,自打盘古开天地,三皇五帝到如今,我们那儿还没听说食物还能中毒。《蛙》

(Nói một cách thực lòng, lúc ấy mọi người không hề nghĩ đến khái niệm ngộ độc thức ăn. Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa, trải qua Tam Hoàng Ngũ Đế cho đến nay, đây là lần đầu tiên chúng tôi mới biết là ăn uống có thể bị ngộ độc.) (Ếch)

Ở đây, tác giả đã sử dụng các nhân vật trong truyền thuyết và trong lịch sử để khoa trương. Theo truyền thuyết, Bàn Cổ được thai nghén trong vòng 18.000 năm và là người khai thiên lập địa, sáng tạo ra thế giới. Còn Tam Hoàng Ngũ Đế đều là những nhân vật có thật trong lịch sử Trung Hoa. Thực ra, đoạn văn đã sử dụng khoa trương để nhấn mạnh ý, từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ chúng tôi mới biết là ăn uống có thể bị ngộ độc.

(49) 但她在王肝眼里是天下第一美人,说文雅点,这叫 情人眼里出西施;说粗俗点,这叫王八瞅绿豆,看对眼了。《蛙》

(Nhưng trong mắt Vương Can, “Tiểu sư tử” lại là đệ nhất mĩ nhân trên thế gian này, nói văn vẻ một tí thì “trong mắt người đang yêu, em bỗng hóa Tây Thi”.) (Ếch)

Ở đây, tác giả đã so sánh “Tiểu sư tử” với một trong “tứ đại mĩ nhân” trong lịch sử Trung Hoa.

(50) 真正的大能人在这里呢,陈鼻指指袁腮,说:这人,上知天文,下知地理,五百年前的事他全知道,五百年后的事他知道一半。《蛙》

 (Người bản lĩnh chân chính đang có mặt ở đây – Trần Tị chỉ vào , Viên Tai nói: – Người này trên thông thiên văn, dưới tường địa lí, chuyện năm trăm năm trước thuộc như đường chỉ trong lòng bàn tay, chuyện năm trăm năm sau biết một nửa.(Ếch)

Câu nói của Trần Tị khen Viên Tai khiến ta liên tưởng tới nhân vật Khổng Minh trong “Tam quốc diễn nghĩa” một nhân vật kiệt xuất về các lĩnh vực quân sự, chính trị, ngoại giao, được cho là trên thông thiên văn, dưới tường địa lí, giữa hiểu lòng người. Không những thế, đối với những người am hiểu văn hóa Trung Hoa, chỉ cần nói đến “năm trăm năm” là họ nghĩ ngay đến hình ảnh Tề Thiên Đại Thánh từng tu luyện năm trăm năm ở Hoa Qủa Sơn Thủy Liêm Động, thông thạo bảy hai phép thần thông, phò tá Đường Tăng đi lấy kinh trong tiểu thuyết cổ điển “Tây du kí” của Ngô Thừa Ân.

Dấu ấn văn hóa còn được thể hiện trong khoa trương của Mạc Ngôn qua những lời thề thốt. Đó là hình ảnh lão Đổng – bác sĩ thú y trong “Trâu thiến”. Sau khi đánh vật với con trâu Song Tích mà không thành công, bị mọi người nói khích, lão thề:

(51) 奶奶个熊,今日我不阉了你,把董字倒过来写!《牛》

(Bữa nay không cắt được dái mày, ông không còn mang họ Đổng nữa!)          (Trâu thiến)

Đối với người phương Tây, họ không phải là vấn đề quan trọng, mang họ nào là quyền của mỗi người và nhiều khi hết sức tùy hứng, anh em ruột thịt, thậm chí bố con có thể mang họ khác nhau. Ngược lại, đối với người Trung Quốc, họ là vấn đề rất hệ trọng; cho nên, một người nào đó mắc một tội nặng có thể bị khai trừ ra khỏi họ. Một khi đã phải đưa họ ra để thề thốt thì sự việc đã trở nên hết sức nghiêm trọng.

Xét các trường hợp sau:

(52) 老四更牛,嫁给了公社屠宰组组长宋五轮,宋手 里天天攥着几十张肉票,走到哪里都像香香蛋似的。《牛》

(Đứa thứ tư tuổi trâu, cuối cùng lại chui vào nhà của tay tổ trưởng tổ giết mổ Tống Ngũ Luân trên huyện, trên tay của gã họ Tống này trên tay ngày nào cũng có mấy chục tờ tem phiếu mua thịt, đi đến đâu là chỗ đó có mùi thơm của thịt bay lên.) (Trâu thiến)

 (53) 他大女婿瘦得像一只螳螂。据说前几任炊事员刚到公社食堂时都很瘦, 但不到一年,身体就像用气吹起来一样,胖得走了形。《牛》

(Gã con rể này gầy như một con bọ ngựa. Nghe nói những người đã từng làm cấp dưỡng ở nhà ăn công xã đều gầy như bọ ngựa cả, nhưng không đầy một năm sau, ai ai cũng như được bơm căng không khí, mập đến độ đi không nổi mà phải lăn).

Qua các ví dụ trên ta có thể thấy, tem phiếu phản ánh sinh hoạt của thời bao cấp, cái thời kì mà tất cả mọi nhu cầu của con người từ cái ăn cái mặc đến mọi nhu cầu thiết yếu khác như cái kim sợi chỉ đều phải phân phối ở cửa hàng hợp tác xã. Hình ảnh nhà ăn công xã phản ánh một giai đoạn phát triển đi lên “chủ nghĩa xã hội” giai đoạn đầu của “chủ nghĩa cộng sản” (một xã hội không tưởng) của nhân dân Trung Quốc do Mao Trạch Đông khởi xướng. Thời kì này đã khiến người dân Trung Quốc lâm vào nạn đói và hậu quả của nó là ba bảy phảy bảy triệu người chết đói, được phản ánh trong cuốn “Mao Trạch Đông – ngàn năm công tội”.

Trong tiểu thuyết “Ếch” có chi tiết:

(54) 她说:你们以为我真喝醉了?没那回事,姑姑我是千杯不醉。《蛙》

(Cô nói: Chúng bay nghĩ là ta đã say thật rồi à? Không có chuyện đó đâu. Cô đây nghìn cốc không say!).  (Ếch)

Câu nói của bà cô bắt nguồn từ câu cách ngôn tiếng Hán: 酒逢知己千杯少/ 说不投机半句多 “Rượu phùng tri kỉ thiên bôi thiểu/ Thoại bất tri âm bán cú đa” (Uống rượu gặp bạn nghìn chén cũng còn ít / Nói chuyện mà không hợp nhau thì nửa câu cũng bằng thừa).

6. Cách sử dụng khoa trương trong tác phẩm của Mạc Ngôn

Mạc Ngôn đã sử dụng khoa trương như một công cụ hữu hiệu trong các đoạn văn miêu tả, kể chuyện. Khẩu ngữ trong văn của Mạc Ngôn cũng rất gần gũi với độc giả.

6.1. Văn miêu tả, kể chuyện

Mạc Ngôn đã sử dụng khoa trương phóng to khi so sánh đống lúa với một hòn núi:

(55) 娘儿们铡场时,小山一样的麦个垛里把爷爷的活儿挑出来。

(Lúc đập lúa, các bà các chị có thể trêu đùa với những lời nói của ông tôi từ trong đống lúa mạch to như hòn núi nhỏ.)

Cái chợ cá ở Cao Mật quê ông hiện lên thật hấp dẫn, sinh động:

(56) 时候,马桑镇的鱼市有三里长,槐花开放时,正是鳞刀鱼上市的季节,街边白晃晃的,耀得人不敢睁眼。《牛》

(Ngày ấy, chợ cá ở thị trấn Mã Tang dài đến hai cây số. Đúng mùa hoa hòe nở là cá hố biển tràn ngập chợ, hai bên đường trắng loa lóa, sáng lóa đến độ người đi đường không dám mở mắt.) (Trâu thiến)

Dưới ngòi bút của ông thành phố Đại Lan hiện lên qua thật hấp dẫn qua mấy nét chấm phá nhờ thủ pháp nhân cách hóa khoa trương:

(57) 他看到张牙舞爪的大栏市正像个恶性肿瘤一样迅速扩张着,一栋栋霸道蛮横的建筑物疯狂地吞噬着村庄和耕地。《丰乳肥臀》

(Anh thấy thành phố Đại Lan giơ nanh múa vuốt, phát triển với tốc độ ung thư ác tính. Nhưng ngôi nhà cao tầng ngỗ ngược, điên cuồng nuốt chửng thôn xóm và đất trồng trọt.) (Báu vật của đời)

Mạc Ngôn có tài kể chuyện. Người đọc không khỏi bật cười khi ông kể chuyện một ông bác sĩ phòng mạch tư yêu cái ấm trà đến mức:

(58) 我听婶婶说,他每天早晨坐马桶时,都要把沏满开水的茶缸子放在面前的小凳子上, 边出恭,一边进水。《冰雪美人》

(Thím tôi bảo, sáng nào vào nhà vệ sinh ông cũng phải đem theo vại trà đổ đầy nước sôi vào theo, đặt trên ghế đẩu nhỏ, vừa đi ngoài vừa uống nước.) (Mĩ nhân băng tuyết)

Rồi ông miêu tả cái ấm trà của ông bác sĩ:

(59) 他用了一个特大号的,外边漆着一个字的,伤很累累的搪瓷缸子,缸子里一片漆黑,漆锈有半寸厚。《冰雪美人》

(Ông dùng cái vại sứ cỡ lớn, ngoài có sơn một chữ “thưởng ” và đã sứt mẻ nhiều chỗ thay ấm pha trà, trong vại cặn trà bám đen sì, dày có đến nửa đốt ngón tay.) (Mĩ nhân băng tuyết)

Bà vợ của chú Mặt Rỗ trong “Trâu thiến” được bạn của chồng khen là có làn da trắng, đã có cách phủ định hết sức hài hước, đậm đặc chất khẩu ngữ như sau:

(60) 婶道:说老董同志,咱骂人也不能这个骂法,把俺扔到煤堆里,才能显出白来。《牛》

(- Đồng chí Đổng này, ông có chửi người ta thì cũng đừng có dùng cách chửi ấy. Cứ đem tôi ra quẳng vào đống than hầm thì may ra tôi mới biểu lộ được chút trắng tinh.) (Trâu thiến)

(61) 人不可貌相,海水不可斗量,别看跑跑长的丑,长大了没准会有大出息呢!姑姑说。姐姐说:他要有大出息,圈里那头猪也能变成老虎!《蛙》

(- Đừng có trông vào tướng mạo, ai mà đong được nước của biển khơi. Đừng có coi thường Tiểu Bão không đẹp trai, lớn lên biết đâu sẽ trở thành vĩ nhân đấy chứ – Cô nói.

- Tiểu Bão mà là vĩ nhân thì đến con lợn trong chuồng cũng biến thành con hổ mất thôi! – Chị tôi nói.) (Ếch)                                                   

6.2. Khẩu ngữ trong tác phẩm của Mạc Ngôn

(1) Đe dọa, thách thức, cảnh cáo

(a)  Đe dọa

Hành vi đe dọa là cho đối phương biết trước sẽ làm điều không hay nếu đối phương làm trái ý với mục đích là làm cho đối phương sợ. Trong khẩu ngữ của Mạc Ngôn thường dùng những lời lẽ khoa trương để đe dọa như lấy mạng, cắt đầu, mổ bụng, moi gan, lột da, cắt chân, móc mắt. Dưới đây là những ví dụ điển hình:

(62) 田桂花,你要再敢给人接生,就把你的狗爪子剁了去!《蛙》

(Điền Quế Hoa, bà còn dám tiếp tục đỡ đẻ nữa, tôi sẽ cho dân quân cắt hết mấy ngón tay chó của bà!”) (Ếch)

     (63) 王脚说:肖下唇你个小杂种,你要敢动王肝一指头我就挖出你的眼珠儿!《蛙》

(Vương Cước nói: “Mày là đồ tạp chủng. Mày dám động đến một sợi tóc của Vương Can là tao móc mắt mày ra!”) (Ếch)

(64) 他从拘留所被放出来后就放出狂话,谁敢 逼他去结扎,他就跟谁白刀子进红刀子出。《蛙》

(Sau khi rời khỏi trại giam, thái độ của ông ta càng trở nên ngang ngược hơn, điên cuồng tuyên bố: “Ai bắt ông đi thắt ống dẫn tinh thì sẽ được nếm mùi vị của lưỡi dao khi chọc vào cơ thể thì trắng rút ra thì đỏ!) (Ếch)

(65) 老董同志恼怒地说:今日我真他妈地倒了霉,碰上了你这块滚刀肉!好吧,我阉,阉完了牛,连你这个王八蛋也阉了!《牛》

(Đ. mẹ! Bữa nay quả là xui hết cỡ tôi mới gặp phải cái đống thịt dai nhoách như ông. Được rồi, tôi làm. Thiến xong con trâu, tôi sẽ thiến nốt ông luôn!) (Trâu thiến)

 (66) 穿花袄的奴人飞一般来到房后,骂道:小坏种,你能上了天?你爹和你娘怎么弄出你这么个野种来?折我一根树杈我掰断你一根肋条!《大风》

(Người đàn bà mặc áo hoa chạy như bay đến sau nhà chửi: - Đồ mất dạy, mày chạy được lên giời à? Làm sao bố mẹ mày đẻ ra được cái loại ngỗ ngược này cơ chứ. Chặt của tao một cành cây tao sẽ bẻ gãy một rẻ xương sườn mày.) (Đại phong)

 (b) Thách thức

(67) 信中说如果他敢伤万六府三位亲人一根毫毛,胶东军区将集合全部兵力攻打平度城。《蛙》

(Trong thư nói, nếu Sugutani dám động đến một sợi lông ba người thân của Vạn Lục Phủ thì quân khu Giảo Đông sẽ tập hợp lực lượng toàn quân khu để san thành Bình Độ thành bình địa.) (Ếch)

 (c) Cảnh báo

(68) 姑姑把手中的半个馒头往我姐姐手里一塞说:气死我了!王胆,这个小妖精,我费了天大的劲儿才把她肚里那个孩子掏出来,她竟丧良心造我的谣言。等我见到她把她那张×嘴给豁了。《蛙》

(Tức chết đi được! Con tiểu yêu Vương Đảm này, cô tốn không biết bao nhiêu sức lực mới lôi nó từ trong bụng mẹ ra mà bây giờ nó lại đặt điều nói bậy táng tận lương tâm như vậy. Chờ đó cô mà gặp, cô sẽ cắt phăng cái mặt nó đi!) (Ếch)

(69) 李四说:你嘴要痒痒就放在树皮上蹭蹭!《牛》

(Lý Tứ quát: “Nếu ngứa miệng thì mày hãy cạ vào vỏ cây cho đỡ ngứa!)

(70) 你可别出去胡啰啰啊,八字还没一撇呢!姑姑转脸叮嘱我们:你们也不要出去胡说,否则我剥了你们的皮。《蛙》

(Chị đừng có nói lung tung! – quay sang chúng tôi, cô dọa – Tụi bay cũng đừng ra ngoài nói năng bậy bạ, đứa nào nói đến chuyện này tao lột da.) (Ếch)

(71) 我把他的话向姑姑转述后,姑姑杏眼圆睁,银牙顿挫地说:总有一天,我要亲手劁了这个杂种!《蛙》

(Khi đem những lời của lão Tiêu kể lại với cô, đôi mắt cô trợn tròn vo, nghiến răng mím lợi nói: “Rồi sẽ có một ngày, chính tay cô sẽ lột da lão tạp chủng này!”) (Ếch)

(72) 计划 生育不搞不行,如果放开了生,一年就是三千万,十年就是三个亿,再过五十年,地球都要被中国人给压偏啦。《蛙》

(Sinh đẻ có kế hoạch không thể không thực hiện, cứ đẻ thoái mái mỗi năm tăng ba mươi triệu nhân khẩu, mười năm là ba trăm triệu, cứ thế năm mươi năm nữa trái đất này bị người Trung Quốc đè cho biến dạng méo mó mất thôi.) (Ếch)

 (2) Nịnh hót  

Trong giao tiếp hàng ngày, chúc tụng, ca ngợi, động viên cổ vũ, khen nhau khiến cho nhau phấn khởi vui vẻ trong cuộc sống là chuyện hết sức thường tình. Thế nhưng nịnh hót, nịnh nọt để thành kẻ nịnh bợ thì cũng không phải là chuyện hiếm. Các kiểu nịnh xưa nay rất đa dạng, nhưng đều có chung một bản sắc, đó là tự hạ mình ca tụng, khen ngợi bề trên một cách quá mức để tranh thủ cảm tình, cầu lợi cho bản thân.

Như vậy, hành vi nịnh hót là hành vi khen quá đáng hoặc khen không đúng chỉ cốt để làm đẹp lòng, thường nhằm mục đích cầu lợi. Trong “Trâu thiến” người ta đã tâng bốc một ông bác sĩ thú y khi về giúp dân làng thiến con trâu Song Tích:

(73) 我的天,三分钟不到您就阉了一头牛!老董同志您简直就是牛魔王! 《牛》

(Trời ơi! Chỉ không đầy ba phút mà thiến xong một con trâu! Đồng chí Đổng! Ông đúng còn lợi hại hơn Ngưu Ma Vương!) (Trâu thiến)

Trong tiểu thuyết “Ếch”, thật khôi hài khi một nhân vật đã nịnh cô em chồng là bác sĩ phụ sản bằng những lời lẽ  “có cánh” với hi vọng cô ấy sẽ giúp đỡ đẻ cho trâu:

(74) 亲笑着说:妹妹,谁让你是咱自家人呢?不找你找谁呢?人家都说你是菩萨转世,菩萨普渡众生,拯救万物,牛虽畜类,也是性命,你能见死不救吗!《蛙》

(- Mẹ tôi cười nói:- Em à, ai bảo em sinh ra trong nhà này? Không tìm em thì anh chị tìm ai? Người ta đều nói em là bồ tát hiện thế, bồ tát phổ độ chúng sinh. Trâu tuy là gia súc nhưng cũng có số mệnh, em nỡ lòng thấy chết mà không cứu sao?) (Ếch)

(75) - 姑姑说,嫂子,幸亏你不识字,要是识上两箩筐字,和平村里如何能盛得下你!- 亲说,即便我识上八箩筐字,也比不上妹妹一根脚趾头。《蛙》

(Cô nói: - Chị dâu à, may mà chị không biết chữ, chỉ cần chị có hai sọt chữ thôi, thôn Hòa Bình này làm sao chứa được chị đây?

Mẹ nói: - Cho dù chị biết đến tám sọt chữ, chị cũng không thể so với một ngón tay của em đâu!)     

Còn đây là những lời nịnh nọt ông bí thư chi bộ thôn nhằm xoa dịu tình hình  trong “Đại phong”: 

(76) 他十条狗命也不值小珍子一条命,只要小珍子平安无事,要我身上的肉我也割。。。。。《大风》

(Mười cái mạng chó của nó cũng không đáng giá bằng một mạng của cô nhà, chỉ cần cô nhà bình an vô sự thì nếu có cần thịt trên người tôi cũng cắt.) (Đại phong)                     

 (3) Hứa hẹn, thề nguyền, cam kết

Hứa hẹn: Searle chấp nhận cách định nghĩa của Austin “người nói cam kết sẽ thực hiện một hành động nào đấy”. Đó là nội dung mệnh đề phát ngôn. Như vậy, cam kết là chính thức cam đoan làm đúng những điều mình đã hứa. Ví dụ:

(77) 老董同志不看我们,也不看麻叔,眼镜后的青眼直盯着双脊后腿间那一大团物件,咬着牙根说:奶奶个熊,今日我不阉了你,把董字倒过来写!《牛》

 (Lão Đổng không thèm nhìn chúng tôi, cũng chẳng thèm nhìn chú Mặt Rỗ. Đôi mắt sau cặp kính đen đang chăm chú nhìn vào bộ dái treo lủng lẳng giữa hai đùi con Song Tích.

 - Bà tổ cô cái đồ hung hãn này! Bữa nay không cắt được dái mày, ông không còn mang họ Đổng nữa!) (Trâu thiến)

(78) 老董同志脸涨得青紫,说:麻子,你真是狗眼看人低!老董我今天不阉了它我就头朝下走回公社!《牛》

(Lão mặt rỗ kia! Đúng là ông đã dùng mắt chó để nhìn người quá thấp. Lão Đổng này bữa nay không thiến được con trâu này thì sẽ đi ngược đầu về công xã cho ông xem) (Trâu thiến)  

Khoa trương của Mạc Ngôn còn được dùng trong những câu thề độc, tức là đưa những câu độc địa ra để thề, kiểu như:

(79) 好,我发誓:如果我泄露了王肝的秘密,就让我掉到河里淹死。《蛙》

(Được! Tôi thề – Nếu tôi mà làm lộ bí mật của Vương Can thì tôi sẽ rơi xuống sông chết đuối.) (Ếch)

Nhiều khi tình hình không đến mức nghiêm trọng, nhưng người ta có thể thề là con vật. Chẳng hạn:

(80) 我郑重其事地说:我不骗你,骗你我就是狗!我亲眼看到了。《蛙》

(Tôi nói rất trịnh trọng: “Mình không lừa bạn đâu, lừa bạn mình sẽ là con chó! Mình chính mắt trông thấy.”) (Ếch)

     (4) Chửi đổng, chửi thề          

Chửi đổng là một dạng chửi bâng quơ, to tiếng nhưng không nhằm vào ai cụ thể, không chỉ đích danh. Chửi đổng nhiều khi chỉ là chửi cho bõ tức, giải tỏa những nỗi bức xúc trong người. Tuy nhiên, cũng có trường hợp chửi đổng là chửi vu vơ nhưng ám chỉ một người nào đó, vì chửi đích danh sợ đối phương trả lời đích đáng hơn, hoặc giả biết chắc đối phương phải im hơi lặng tiếng, ngấm ngầm chịu đựng, sợ lên tiếng thì có khi xấu hổ với người xung quanh.

Còn chửi thề là một dạng tự chửi mình hoặc là câu đệm của một số người cũng không hẳn là vô văn hóa cứ mở miệng là chửi thề.

Một người trong ngày gặp toàn những điều không may mắn, làm việc gì hỏng việc ấy cũng có thể chửi mà không biết mình đang chửi ai:

 (81) 妈的,倒霉, 早晨出门就碰到一只野兔子,知道今日没有什么好运气!《牛》

 (- Mẹ kiếp, đúng là xui xẻo. Sớm vừa mới rời khỏi cổng gặp ngay một con thỏ hoang tao đã biết là ngày hôm nay chẳng gặp được điều tốt đẹp gì.) (Trâu thiến)

Trong tiểu thuyết “Ếch”, một bà cô lúc trẻ là người có nhan sắc nên “kén cá chọn canh”, đến khi quá lứa lỡ thì, kể lại cho lũ cháu nghe về thời kì “huy hoàng” của mình, ngoài việc sử dụng những từ ngữ và khoa trương còn đệm vào những tiếng chửi thề đậm đặc chất khẩu ngữ. Vì vậy, câu văn không chỉ giàu hình ảnh mà còn rất sinh động:

(82) 那时候,我是活菩萨,我是送子娘娘,我身上散发着百花的香气,成群的蜜蜂跟着我飞,成群的蝴蝶跟着我飞。现在,现在它妈的苍蝇跟着我飞。《蛙》

(…Lúc ấy, cô là một bồ tát sống, là nương nương cứu thế. Trên cơ thể cô tản phát hàng trăm mùi thơm, những đàn ong bay liệng chung quanh cô, những đàn bướm bay liệng trên người cô. Bây giờ, tổ cha nó, chỉ ruồi nhặng bâu chung quanh cô mà thôi.) (Ếch)

 

 

Kết luận

Khoa trương là một thủ pháp nghệ thuật hết sức độc đáo trong các tác phẩm của Mạc Ngôn. Nó luôn tạo sự mới mẻ, kích thích trí tưởng tượng và lôi cuốn người đọc. Thông qua đó, lời ăn tiếng nói của quần chúng vào trang văn của ông hết sức tự nhiên như cuộc đời thực vốn có của nó. Từ đó có thể rút ra mấy đặc điểm sau:

Khoa trương không phải là miêu tả sự vật đơn thuần mà là biểu thị tình cảm, tức là trong đó có gắn với thái độ, tình cảm của tác giả.

Khoa trương bất luận là phóng to hay thu nhỏ đều giúp người đọc nhìn rõ đặc tính và bản chất của sự vật, từ đó đạt được những ấn tượng sâu sắc mới mẻ và sự cảm thụ tinh tế.

Khoa trương trong một hoàn cảnh ngôn ngữ nhất định có thể đạt được hiệu quả châm biếm, hài hước.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cù Đình Tú (2007), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giaó dục.

2. Đào Thản (1990), Lối nói phóng đại trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ.

3. Đinh Trọng Lạc (2005), Phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giaó dục.

4. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2006), Phong cách học tiếng Việt, Nxb   Giaó dục.

5. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

 

NGUỒN TƯ LIỆU TRÍCH DẪN

6. Mạc Ngôn (2001), Báu vật của đời, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh.

7. Mạc Ngôn (2010), Ếch, Nxb Văn học, Hà Nội.

8. Mạc Ngôn (2004), Truyện, Nxb Văn học, Hà Nội.

9. 莫言作品_小说在线阅读_努努书坊