Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Luận về quyền lực và quyền mưu

Đắc Trung
Chủ nhật ngày 22 tháng 2 năm 2009 7:12 AM

   «    Quyền lực gắn liền với quyền mưu. Có quyền lực mà không có quyền mưu thì chẳng khác kỵ sĩ mù cưỡi ngựa mù ».
                                                                                Tôn Tẫn
 
      Con ong chúa, con sư tử đầu đàn, con khỉ đầu đàn : Đầy quyền lực. Thủ lĩnh một bộ tộc, đứng đầu một tổ chức, một địa phương, một quốc gia : Đầy quyền lực. Quyền lực mang cả yếu tố tự nhiên và xã hội, cả khái niệm và thực thể. Con vật sử dụng quyền lực theo bản năng tự phát. Con người sử dụng quyền lực tự giác qua trí tuệ. Thành bại đại nghiệp một đời, hay hưng vong một quốc gia phụ thuộc ở đấy. Bởi thế tinh thông quyền lực và quyền mưu là nhu cầu tất yếu cho bất kỳ đối tượng nào liên quan đến quyền lực. Nhà đại mưu lược Khương Tử Nha (đời nhà Chu) dạy : «  Mưu trước hành sau sẽ sống. Hành trước mưu sau sẽ chết ». Trong trước tác « Lục thao », bộ sách lý luận tương đối có hệ thống đầu tiên thời cổ đại của lịch sử Trung Hoa còn lưu giữ được trong 237 thiên thì Khương Tử Nha viết tới 81 thiên về « mưu », 71 thiên về « ngôn », 80 thiên về « binh »... Ông đặt « mưu » lên vị trí hàng đầu trong trị quốc, ngoại giao, quân sự... Chính nhờ mưu lược mà Khương Tử Nha đã giúp Chu Văn Vương đánh tan Trụ Vương kết thúc triều Thương Ân tồn tại đã hơn 600 năm giành bá chủ thiên hạ. Tôn Tử (thời Xuân Thu) nhà binh pháp lỗi lạc coi « đánh bằng mưu » là quan trọng nhất, coi « trí » là « điều kiện đầu tiên của tướng soái ». « Đánh bằng mưu » thì có thể lấy ít địch nhiều, lấy yếu địch mạnh mà vẫn thắng, thậm chí không đánh mà thắng.
     
       Quyền lực  gồm hai yếu tố cấu thành : Thực quyền  và  thế quyền.
       Thực quyền  thuộc nội lực, là khả năng cá nhân gồm : học vấn, bề dầy kinh nghiệm, phương pháp tư duy, là nhân cách đạo đức ...
      Thế quyền  thuộc  ngoại lực, là chức vụ, quyền hạn được giao.
       Thực quyền  là chính. Thế quyền  là phụ. Nội lực  là chính.  Ngọai lực  là phụ. Thực quyền là cái đầu. Thế quyền  là cái ghế. Cái đầu là của mình, thuộc sở hữu. Cái ghế không phải của mình, chỉ được sử dụng. Sử dụng phải đúng mục đích, đúng pháp luật. Có  thực quyền  mới được giao  thế quyền. Thực quyền đến đâu, giao  thế quyền đến đấy. Có thực quyền không được giao thế quyền, thực quyền không đủ điều kiện phát huy. Không có thực quyền mà giao thế quyền là đồng nghĩa với phá hoại. Thực quyền và thế quyền quan hệ biện chứng.
      
       Quyền lực thể hiện qua ba mặt : Tài lực (tài chính), nhân lực (con người) và vũ lực (sức mạnh). Trong đó tài lực là chính. Có tài lực, sử dụng tài lực đúng mục đích, đúng pháp luật sẽ có nhân lực và vũ lực. Và, ngược lại. Ba mặt tương quan gắn bó chặt chẽ.
        Bằng cách nào để có  quyền lực ?
        Trước hết phải có thực quyền. Đồng thời kiếm tìm thế quyền.
        Có ba cách để có thế quyền : cận quyền, cầu quyền và kích quyền.
      
       Cận quyền :
       Là tiếp cận quyền lực ( cá nhân, hoặc tổ chức có quyền lực). Quan hệ trực tiếp và công việc cụ thể là điều kiện lý tưởng để thể hiện thực quyền. Người ta sẽ lấy đó làm căn cứ để giao thế quyền xứng đáng. Hoặc ngược lại.
      Võ Tắc Thiên (triều nhà Đường-Trung Hoa) tên thật là Võ Mỵ Nương xuất thân tầng lớp bình dân tại Kinh Châu. Nhờ được tuyển vào cung mới có dịp gần gũi vua Đường Thái Tông, mới có điều kiện bộc lộ năng lực mọi mặt của mình khiến các quan đại thần khâm phục và được nhà vua phong làm « tài nhân », rồi « hoàng hậu », được uỷ thác nhiếp chính, được tôn là « đế hậu nhị thánh », rồi thâu tóm hết quyền lực lên ngôi Hoàng đế. Ở nước ta có Nguyên phi Ỷ Lan. Tên thật bà là Lê Thị Yến quê làng Thổ Lỗi (Thuận Thành, Bắc Ninh), mồ côi mẹ năm 12 tuổi, bố lấy vợ lẽ, ở với rì ghẻ khổ hơn cô Tấm. Năm ấy vua Lý Thánh Tông đi Chùa Đậu cầu tự. Dân làng kéo nhau đến xem, riêng cô Yến chăm chỉ hái dâu vừa làm vừa hát. Vua thấy lạ vời lại hỏi. Thấy người xinh đẹp, hiền thục, đối đáp lưu loát, nhà vua cảm mến đưa về cung phong làm Nguyên phi Ỷ Lan. Ỷ Lan không lấy việc chau chuốt nhan sắc làm trọng, ngày đêm miệt mài đọc sách, khổ công học hỏi. Triều thần kinh ngạc về sự thông thái, hiểu biết uyên thâm của bà. Năm 1069 nhà vua đi dẹp giặc Chiêm Thành bà được giao quyền nhiếp chính. Năm 1072, vua qua đời, Lý Nhân Tông mới 7 tuổi nối ngôi, bà vẫn nhiếp chính. Bà dựa vào các nhân tài như Lý Thường Kiệt, quy tụ sức mạnh cả nước tổ chức đánh tan giặc Tống xâm lược (1077). Có nhiều công lớn, khi qua đời bà được dân chúng xưng tụng là Quan Âm, được nhà vua phong là Phù Thánh Linh nhân Hoàng Thái hậu.
      Nếu không được cận quyền thì mãi mãi Võ Mỵ Nương và Lê Thị Yến  chỉ là hai cô gái quê.
      Cần hiểu rằng  quyền lực không chỉ có ở những cá nhân và tổ chức cấp trên, mà ở cả cá nhân và tổ chức cấp dưới, từ những người lao động bình thương, nhất là trong chế độ dân chủ tiến bộ. Được cấp trên biết, cấp trên « cử » nhưng cấp dưới không biết, nhân dân không biết, không « bầu » thì liệu có đề bạt, có trúng cử, có được giao thế quyền ? Bởi vậy cận quyền không chỉ với cấp trên mà cả với cấp dưới.
      Quyền từ cấp dưới, từ dân mới là gốc, mới bền vững. Coi thường quyền lực cấp dưới, coi thường quyền lực nhân dân sẽ không tránh khỏi hậu hoạ.
   Cầu quyền :
      Không phải cầu cạnh, cầu xin, chạy chọt, mà là tạo cầu nối giữa quyền lực với các đối tác cần  quyền lực. Có hai cách cầu quyền : khách quan và chủ quan.
     
     Cầu quyền khách quan :
      Là được người khác tiến cử.
      Thời nhà Hán, Hàn Tín có tài xuất chúng đã từng theo Hạng Vũ. Với danh nghĩa quan thị vệ nhiều lần ông tìm cách tiếp cận Hạng Vũ để trình bày kế sách, mưu lược. Đáng tiếc Hạng Vũ ngông cuồng tự đại không biết nghe, không biết dùng người, khinh thường Hàn Tín xuất thân nghèo hèn chỉ cho làm chức quan nhỏ. Hàn Tín thất vọng quyết định bỏ Hạng Vũ  theo Lưu Bang. Lúc đầu không hiểu Hàn Tín, Lưu Bang cũng chỉ cho ông chức quan coi kho quân lương. Rất may ông gặp được Tể tướng Tiêu Hà. Là người sáng suốt Tiêu Hà nhận biết Hàn Tín là bậc kỳ tài, ông tiến cử với Lưu Bang. Nhưng Lưu Bang cũng chưa trọng dụng.  Thất vọng Hà Tín lại bỏ đi. Được tin Tiêu Hà đích thân đuổi theo. Suốt ba ngày ba đêm mới gặp được Hàn Tín. Ông cố thuyết phục Hàn Tín quay về rồi lại kiên trì tiến cử với Lưu Bang : « Nếu Bệ hạ chỉ muốn xưng vương ở đất Hán Trung này thì không cần Hàn Tín. Nhưng muốn đoạt cả thiên hạ, thì ngoài Hàn Tín ra không ai có thể cùng Bệ hạ bàn việc quốc gia đại sự ». Sau nhiều lần nghe Tiêu Hà thuyết giải, lại biết Tiêu Hà xưa nay rất giỏi dùng người, nhà vua chuẩn y phong Hàn Tín làm đại tướng thống soái ba quân. Nhờ thế Hàn Tín mới có điều kiện bộc lộ  thực quyền  bằng khả năng siêu phàm trở thành danh tướng đầy mưu lược trí dũng song toàn, bách chiến bách thắng, lừng lẫy chiến công, được Lưu Bang phong tới chức Tề vương.
      Bàng Thống người Tương Dương, lòng rộng, chí lớn, hiệu là Phục Phượng (Phượng hoàng ẩn mình) mai danh ẩn tích trong núi nghiền ngẫm binh thư mong tìm hào kiệt. Lỗ Túc biết, tiến cử với Lưu Bị. Thấy Bàng Thống diện mạo xấu xí, vừa đen, vừa lùn, mũi hếch, râu mọc đầy mặt Lưu Bị chỉ để Bàng Thống đảm nhận chức Huyện lệnh. Bàng Thống trong lòng bất mãn, muốn ra đi. Lỗ Túc liền viết thư cho Lưu Bị : «  Quản lý một huyện nhỏ không nên dùng Bàng Thống. Để ông ta làm từ Tự trung, Biệt giá trở lên mới phát huy được tài năng ”. Khổng Minh Gia Cát Lượng chỉ mấy lần tiếp xúc cũng đánh giá Bàng Thống rất cao và hết lòng tiến cử. Đến lúc này Lưu Bị mới cho Bàng Thống triệu kiến. Sau khi trò chuyện, Lưu Bị vô cùng quý trọng, khâm phục, liền bổ nhiệm chức Quân sư trung lang tướng, chỉ ở sau Gia Cát Lượng. Trận Xích Bích lừng danh, liên quân Ngô - Thục đại thắng Tào Tháo, công lớn là nhờ kế “hoả liên hoàn” của Bàng Thống. Ông trở thành nhà đại mưu lược nổi tiếng không kém Khổng Minh, giúp Lưu Bị lập nên đại nghiệp.
     Hoặc triều Tống, Triệu Phổ tiến cử một người, nhưng hoàng đế Triệu Khuông Dẫn không ưa người ấy. Lần thứ nhất không được phê chuẩn. Lần thứ hai Triệu Phổ vẫn tiến cử người ấy. Nhà vua vẫn không phê chuẩn. Lần thứ ba Triệu Phổ vẫn tiến cử người ấy. Nhà vua giận giữ xé tờ tấu ném xuống đất. Triệu Phổ bình thản cúi xuống nhặt lại bản tấu, cáo lui. Về nhà ông đem tờ tấu bị xé dán lại. Lần thứ tư lại vẫn dâng tờ tấu tiến cử người ấy. Triệu Phổ vốn là bậc trung thần đức độ, bốn lần kiên trì tiến cử một người khiến nhà vua nghĩ lại, đoán rằng đó chắc là nhân tài và phê chuẩn. Quả nhiên người ấy sau này trở nên trụ cột cho vương triều của ông. Đó là Đại tướng Tào Bân.
      Nếu không có Tiêu Hà, Triệu Phổ, Lỗ Túc và Gia Cát Lượng làm cầu quyền thì liệu Hàn Tín, Bàng Thống và Tào Bân có trở thành Tề Vương, Quân sư Trung lang tướng và Đại tướng ?
    
      Cầu quyền chủ quan :
      Là tự tiến cử . Muốn thế, trước hết phải có thực quyền, rồi tự gửi tấu trình tới cá nhân hoặc tổ chức quyền lực đề xuất ý tưởng, dùng chính bản tấu làm cầu quyền.
      Năm 140 trCN Hán Vũ Đế ban chiếu kêu gọi thiên hạ tiến cử hiền tài. Chu Mại Thần, một ẩn sĩ nghèo đã bao năm dầy công nghiên cứu binh pháp dâng sớ tự tiến cử và được Hán Vũ Đế triệu kiến. Chu Mại Thần hiến kế đánh Đông Việt. Ông nói:«Vương Dư Thiện ở Tuyền Sơn, dựa vào thế hiểm trở cố thủ nên không phá được. Nay ông ta đi xuống phía Nam ta chớp thời cơ xuất binh theo đường biển tiến đánh úp Tuyền Sơn thế nào cũng thắng ». Quả nhiên bằng kế đó Đông Việt đại bại. Hán Vũ Đế phong ông làm Đô uý chủ tước.
      Nghiêm An, một tài năng chờ thời cũng dâng tấu trình bày chính sự, đặt ra những kế sách trị quốc mà Hán Vũ Đế rất quan tâm. Đọc xong nhà vua đích thân triệu kiến, hết lời khen ngợi, rồi bổ nhiệm làm Từ lang trung. Một năm sau thăng liền bốn bậc tới chức Trung đại phu, trở thành mưu thần quan trọng của nhà vua.
      Thời nhà Nguyên, Quách Thủ Kính nhiều năm nghiên cứu thiên văn, toán học, chế tạo cơ khí ... Tự dâng tấu lên Hốt Tất Liệt đề xuất sáu điểm về phát triển thuỷ lợi kèm các giải pháp cụ thể. Xem xong Hốt Tất Liệt khen : «  Những người như Quách Thủ Kính trẫm đang cần », liền phong cho chức Phó hà cừ xứ Tổng quản thuỷ lợi. Qua hai năm công trình hoàn thành giúp giao thông đường thuỷ thuận tiện, làm chủ tưới tiêu cho chín vạn mẫu đất trồng trọt. Ngoài ra Quách Thủ Kính còn hợp tác với học giả Hứa Hoành và Vương Tuần năm 1280 soạn xong « Lịch thụ thời » là bộ lịch ưu tú nhất thời bấy giờ.
      Bằng cách tự tiến cử Chu Mại Thần, Nghiêm An và Quách Thủ Kính đã thực hiện kế câu quyền chủ quan để đạt được đỉnh cao quyền lực.
     
    
      Kích quyền :
      Là dùng thuật công kích gây phản ứng mạnh để cá nhân hoặc tổ chức có quyền lực biết đến mình. Đây là kế mạo hiểm, thành bại trong gang tấc. Bởi cũng bằng cách tấu trình nhưng nội dung không chỉ đề xuất cải cách mà có cả phê phán, chỉ trích, thậm chí phản đối, lên án mạnh mẽ. Làm được việc này trước hết phải có thực quyền, đặc biệt phải dũng cảm dám chấp nhận hy sinh.
      Thời nhà Thanh, Tăng Quốc Phiên trở thành nhân vật nổi tiếng nhờ kích quyền. Nhiều năm đảm nhiệm các chức Hữu thị lang Bộ Lễ ông dầy công nghiên cứu thời cuộc, đặc biệt từ « Chiến tranh nha phiến » đến « Khởi nghĩa Thái Bình Thiên  Quốc » và thấy rõ những nguyên nhân khiến triều Thanh ngày càng hủ bại về chính trị, hỗn loạn về xã hội, đình đốn sa sút về kinh tế, lòng người ly tán ... là do triều chính không đủ uy, quan lại tham nhũng, bè phái, dân bị đè nén áp bức thậm tệ, luật pháp không nghiêm, kỷ cương phép nước buông lỏng... Ông dâng sớ lên Hoàng đế tỏ rõ bức xúc, bất bình và thuyết phục nhà vua cải cách. Nhưng tiếc thay tấu trình của ông không được hồi âm. Không nản, năm sau ông lại dâng tấu lên Hoàng đế, thái độ mạnh mẽ, cứng rắn hơn, nội dung sâu sắc, khúc triết hơn, những đề xuất cải cách cụ thể hơn. Thậm chí ông dám cảnh cáo Hoàng đế:«Nếu Bệ hạ nghe lời nói thẳng mà cảm thấy đáng ghét, còn nghe lời nịnh hót cảm thấy thân tình thì sẽ không thể ngăn chặn được tệ nạn ». Đọc xong Hoàng đế Hàm Phong nổi giận lôi đình, lập tức sai quân cơ bắt vào trị tội. Các quan đại thần ra sức can ngăn Tăng Quốc Phiên mới được tha.
      Tuy nhiên các bản tấu đó đã làm Tăng Quốc Phiên nổi tiếng khiến Hoàng đế phải suy nghĩ lại và thấy Tăng Quốc Phiên đúng là bậc trung quân ái quốc, tư chất hơn hẳn bọn gian thần. Không trị tội, hơn thế Hoàng đế còn khen ngợi Tăng Quốc Phiên dám nói những điều mà người khác không dám, bổ nhiệm ông chức Thự hình Bộ thị lang.
      Dùng kích quyền để đạt quyền lực như Tăng Quốc Phiên không nhiều. Đa phần chết thảm, bởi minh quân ít mà bạo chúa nhiều. Hầu hết kẻ nắm quyền tham vọng lớn bất chấp luật pháp, đạo lý, dám coi thế quyền thuộc sở hữu riêng, độc đoán, tác quái, biết sai không chịu sửa còn hãm hại trung thần. Gương tiền nhân đó : Văn Vương do thuyết phục vua Trụ mà bị Trụ nhốt ngục. Nhiều bậc gián quan cũng vì xã tắc khuyên can vua mà mang họa như Dục Hầu bị thiêu sống, Quỷ Hầu bị phơi khô, Tỷ Can bị moi gan, Mai Bá bị làm mắm, Quản Di Ngô bị hành hình, Lý Bách Hề phải đi ăn xin, Quan Long Bàng bị chém, Thành Hoành bị phanh thây, Tư Mã Tử bị giết xác trôi trên Sông Giang, Điền Linh bị liệng đá đến chết...
      Tuy nhiên lịch sử vẫn đánh giá cao những nhân cách ấy. Quan văn chết vì can gián, quan võ chết nơi sa trường. Đó là chết vinh.
      Sau khi bằng cận quyền, cầu quyền, kích quyền hoặc kết hợp những kế đó để được thế quyền, nghĩa là đã có quyền lực, đòi hỏi phải tinh quyền mới biết dụng quyền. Bởi thế cần dành cả đời dầy công học tập, nghiên cứu, suy ngẫm. Khoa học về mưu lược mênh mông, dụng quyền thiên hình vạn trạng, ở đây tôi chỉ xin mạo muội đúc rút ra 10 kế :
1.   Kế mượn quyền :
      Quyền lực không bao giờ đủ, vì thế  mượn quyền  là kế không thể thiếu trong dụng quyền.
      Cuối triều Đông Hán xã hội thối nát. Hỗn chiến nổ ra từ  triều chính tới các địa phương. Gian tặc hoành hành cát cứ tranh giành quyền lực. Tào Tháo « rước » vua bù nhìn Hán Hiến Đế đến Hứa Xương, danh nghĩa là phò Thiên Tử song thật ra là khống chế triều đình, mượn quyền vua Hán để điều khiển chư hầu, lợi dụng quan niệm « trung quân ái quốc » để thu phục thiên hạ. Nhờ thế ông ta thâu tóm hết giang sơn.
      Những năm cuối đời, Hoàng đế Lưu Bang rất sủng ái Thích phu nhân, do đó muốn phế trừ Thái tử sắp lập do Lữ Hậu sinh ra là Lưu Doanh, dự chọn Triệu vương Như Ý làm người nối ngôi. Văn võ bá quan trong triều cho rằng không thể được, nghị luận xôn xao, nhưng không ai dám can gián. Lữ Hậu cuống cuồng lo sợ. Nếu ngôi vị Thái tử thay đổi thì ngay mạng sống con mình cũng khó giữ, bà liền nghĩ ngay tới quân sư Trương Lương và đến cầu kiến. Trương Lương cho rằng việc lập Thái tử là vô cùng quan trọng đến giang sơn xã tắc không thể tuỳ tiện thay đổi. Đặc biệt trong lúc nhà Hán mới dựng, nền tảng thống trị chưa vững chắc, lòng dân do vừa phải trải qua biết bao thống khổ nên chỉ mong yên ổn không muốn loạn lạc nữa. Sau khi cân nhắc, Trương Lương hiến kế cho Lữ Hậu :  « Chỉ có thể nhờ vào uy tín của « Thương Sơn Tứ Hạo » mới thay đổi được ý định của Hoàng đế . « Tứ Hạo » là bốn vị đại sư phụ đức cao vọng trọng, kiến thức uyên thâm, tuổi đều đã ngoài tám chục, tiết nghĩa thanh cao, không màng đến công danh lợi lộc ẩn dật trong núi, ngày đêm nghiền ngẫm bách thư, vui vầy cùng cỏ cây hoa loá, chim muông. Nhiều lần Hoàng đế khẩn thiết cầu mời nhưng không được, khiến Hoàng đế càng kính trọng. Nếu Thái tử biết khiêm nhường cung kính, cúi mình thỉnh nguyện được « Tứ Hạo » chịu rời núi qua lại trong cung cùng Thái tử và việc này nếu Hoàng đế  ... » .Quả nhiên đúng như Trương Lương dự đoán. Khi Hoàng đế biết cả bốn vị đại sư mà mình đã nhiều lần mời vẫn từ chối không chịu tới giờ thường xuyên ra vào cung thất cùng Thái tử thì vô cùng kinh ngạc và thán phục  Đồng thời nhận ra rằng Thái tử đã đủ đức đủ tài có thể trao phó giang sơn xã tắc. Từ đó không bao giờ Hoàng đế nhắc tới chuyện thay đổi Thái tử nữa. Sau khi Lưu Bang tạ thế, Thái tử Lưu Doanh kế ngôi hiệu là Hiếu Huệ Đế. Mới biết uy tín là thứ siêu quyền lực. Nếu biết mượn thì hiệu quả sẽ vô cùng.
      Đó là chuyện bên Tầu, còn ở ta, bằng đẳng cấp chính trị siêu phàm của mình, Trần Thủ Độ đã dụng kế  mượn quyền  Lý Chiêu Hoàng hạ chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh, thực hiện trọn vẹn cuộc bàn giao lịch sử vĩ đại mà không hề đổ máu.
      Kế mượn quyền được áp dụng trong mọi trường hợp, trong mọi mặt đời sống xã hội : chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, văn hoá và tình cảm... Khi mượn thế quyền, lúc mượn thực quyền hoặc mượn cả hai. Mượn tài lực, mượn nhân lực, mượn vũ lực hoặc mượn cả ba.  Mượn cái gì, mượn lúc nào, mượn cách nào ? Là những bài toán cụ thế phải giải, cốt nhằm phát huy cao nhất hiệu quả quyền lực.
  
 2.   Kế lược quyền :
       Lược quyền là kế sách mang tính mục đích. Việc dụng quyền trước hết phải xác định mục đích lớn lao, sâu, xa và phải trung thành với mục đích ấy đến cùng. Phải hết sức kiên nhẫn, không vì thù oán, bất mãn mà làm hỏng đại sự. Không vì ân huệ nể nang vô nguyên tắc mà gieo mầm họa. Không vụ lợi trước mắt mà ảnh hưởng tới việc lớn lâu dài. Tôn Tử dạy : «  Vua không thể vì giận mà cất quân. Tướng không thể vì căm uất mà quyết chiến. Hợp với đại sự thì làm, không hợp phải tránh. Giận giữ có thể trở lại vui mừng. Căm uất có thể trở lại bình thản. Nhưng nước mất không thể lấy lại, người chết không thể phục sinh. Vua sáng cần phải thận trọng, tướng giỏi phải biết răn mình ».
      Thời Xuân Thu, Việt vương Câu Tiễn nuôi chí lớn quyết diệt Ngô phục quốc mà nhẫn nhục cùng vợ sang làm con tin bên đất Ngô sống kiếp nô lệ, sẵn sàng quỳ phục dưới chân Ngô vương Phù Sai, dùng lưỡi nếm phân đoán bệnh cho y cốt để Ngô vương Phù Sai tin rằng chí trong đầu Câu Tiễn đã chết, Câu Tiễn đã hoàn toàn thần phục và tha Câu Tiễn trở về nước Việt. Suốt mười năm, đêm nằm trên gai nhọn, ngày nếm mật đắng, kiên trì, quyết tâm sắt đá Câu Tiễn phục hồi quốc sự, củng cố quân đội và cuối cùng đã bình Ngô, diệt Phù Sai rửa xong nhục lớn.
      Hoặc như Tôn Tẫn thời Chiến Quốc. Ông người nước Tề, hậu duệ của Tôn Vũ, thời còn trẻ học cùng với Bàng Quyên, tài năng hơn hẳn khiến Bàng Quyên con người rất nhỏ nhen ấy ghen ghét đố kỵ. Thành tài Bàng Quyên làm tướng nước Ngụy. Chiến tranh Tề - Ngụy bùng nổ, Bàng Quyên rất sợ nước Tề bổ nhiệm Tôn Tẫn làm tướng liền giả nhân nghĩa bí mật mời Tôn Tẫn sang Ngụy. Khi Tôn Tẫn sang Ngụy y lại rất sợ Ngụỵ vương trọng dụng Tôn Tẫn nên đã dùng âm mưu quỷ quyệt vu cho Tôn Tẫn là mật gián của Tề, khép ông « tội hình » cắt gân bánh chè cả hai chân và thích chữ vào mặt. Với bậc đại phu thì « tội hình » là đại nhục thường tìm cách tự vẫn. Nhưng Tôn Tẫn quyết phải sống nuôi chí lớn phục thù. Để bảo toàn tính mạng, ông giả điên, đầu tóc bù xù, áo quần rách rưới, lang thang vạ vật ngoài đường, xó chợ, bốc cả phân cho vào miệng, khi khóc, lúc cười.  Bàng Quyên hoàn toàn tin Tôn Tẫn điên thật, cho rằng sống như thế còn nhục hơn chết và không cho người bám theo nữa. Tôn Tẫn thừa cơ liên hệ được với sứ thần nước Tề đang ở Ngụy. Sứ thần biết Tôn Tẫn là bậc kỳ tài liền dấu Tôn Tẫn vào xe đưa về Tề. Ông được Tề Vương kính nể và trọng dụng bổ nhiệm làm quân sư. Tôn Tẫn viết : «  Tôn Tẫn chi pháp »- bộ trước tác về lý luận quân sự nổi tiếng và giúp tướng Điền Kỵ đánh đâu thắng đấy.
      Chiến tranh Tề - Ngụy bước vào thời kỳ quyết liệt. Quân Tề do Điền Kỵ chỉ huy, Tôn Tẫn quân sư tiến thẳng đến Đại Lương. Bàng Quyên dốc hết binh lực quyết tử chiến. Tôn Tẫn dùng kế, Bàng Quyên mắc mưu bị nhử vào Mã Lăng, nơi hiểm yếu có mai phục sẵn. Quân Ngụy đại bại. Bàng Quyên vừa nhục bởi bịdồn vào chỗ chết, vừa hổ thẹn về sự hèn hạ liền rút gươm tự sát.
      Câu Tiễn và Tôn Tẫn nhờ kiên trì nhẫn nhục vận dụng thành công  Kế lược quyền  nên thắng.
      Thời Tam Quốc, Mạnh Hoạch là thủ lĩnh các dân tộc ít người vùng sơn cước phía Tây Nam luôn đối đầu chống chính quyền Thục Hán. Năm 225 phụng mệnh Lưu Bị, Gia Cát Lượng dẫn quân đi thảo phạt. Cuộc chiến diễn ra ở Nam Trung, Mạnh Hoạch bị bắt sống.Gia Cát Lượng tiếp đãi Mạnh Hoạch như khách, dẫn đi xem doanh trận, rồi hỏi : « Tướng quân thấy thế nào ? ». Mạnh Hoạch đáp : « Lần sau đánh sẽ không thua ».Gia Cát Lượng cười : « Ta thả cho tướng quân về. Chuẩn bị đầy đủ xong đánh lại ». Trận sau Mạnh Hoạch lại bị bắt. Gia Cát Lượng lại thả « về chuẩn bị đầy đủ xong đánh lại ». Trận sau nữa cũng thế. Tất thảy bẩy lần bắt, bẩy lần thả. Cuối cùng Mạnh  Hoạch không đi nữa, cung kính nói : « Ngài là uy Trời vậy. Người phương Nam không dám phản nữa đâu ». Mục đích chiến lược của Gia Cát Lượng không phải giết Mạnh Hoạch. Giết Mạnh Hoạch ấy sẽ có những Mạnh Hoạch khác nổi lên và làm như thế sẽ càng khoét sâu thù hận với các dân tộc thiểu số khiến họ càng điên cuồng chống đối triều đình. Gia Cát Lượng muốn thu phục nhân tâm Mạnh Hoạch để dùng Mạnh Hoạch và ông đã làm được điều ấy. Mạnh Hoạch « tâm phục, khẩu phục » Gia Cát Lượng và đã rũ bỏ hết ý nghĩ phản bội, thành tâm quy thuận chính quyền Thục Hán. Đồng thời với ảnh hưởng của mình Mạnh Hoạch đã khiến thuộc hạ và các dân tộc thiểu số noi theo.
      Bằng Kế lược quyền cao siêu ấy, Gia Cát Lượng đã đặt cơ sở vững chắc cho việc ổn định vùng sơn cước Tây Nam.
      Hàn Tín, một tướng tài dụng binh kiệt suất, lập nhiều công lớn được Lưu Bang tin cậy như huynh đệ. Chiếm xong nước Tề được Lưu Bang triệu về triều bàn việc diệt Sở. Là người có chí lớn, nhưng do tầm nhìn hạn hẹp, tư chất lại nôn nóng thiếu kiên nhẫn Hàn Tín nghe kẻ thấp mưu xúi bẩy dâng sớ lên Hoàng đế Lưu Bang xin được phong Tề vương ngay để « danh chính ngôn thuận » ổn định nước Tề rồi sẽ về triều hội kiến. Vì tham vọng lộ liễu quá sớm, quá thô thiển, khiến Lưu Bang vẫn phong chức Tề vương cho Hàn Tín, nhưng sinh nghi và cảnh giác đề phòng. Rồi để tránh hậu họa Lưu Bang và Lữ Hậu lập mưu giết Hàn Tín.
      Hàn Tín thất bại bởi không biết dụng  Kế lược quyền . Đẳng cấp tư duy về mưu lược như thế ông chỉ làm tướng tài chứ không thể làm vương bá.
 
3.   Kế cơ quyền :
      Kinh dịch dạy : trong suy có thịnh, trong thịnh có suy. Phật pháp dạy: trong khổ có sướng, trong sướng có khổ. Binh pháp Tôn Tử viết: “ Trong điều kiện bất lợi phải nghĩ đến điều có lợi mới giải toả họa hoạn”. Thực tế cuộc sống chứng minh trong may có rủi, trong rủi có may. Cái khó ló cái khôn. Bởi thế người dụng quyền phải có thần kinh thép, bản lĩnh sắt đá, bình tĩnh sáng suốt tổng hợp phân tích mọi yếu tố, lường hết khó khăn, tìm và tạo mọi thuận lợi, nắm thời cơ hoạch định kế sách và mưu lược chính xác nhằm biến hung thành cát, khó thành dễ, nghịch thành thuận, bại thành thắng.
      Cuối đời Hán trong trận đối đầu với tướng Ngụy là Tư Mã Ý ở Tân Thành. Khổng minh Gia Cát Lượng chỉ có không đầy hai ngàn quân, trong khi đối phương hơn hai vạn đại binh truy đuổi gắt gao và tìm cách vây thành, khoá chặt mọi đường rút đẩy quân Thục vào tình thế tuyệt vọng. Tướng sĩ vô cùng hoang mang lo lắng, trong khi Gia Cát Lượng vẫn ung dung điềm tĩnh phe phảy chiếc quạt lông trước ngực chăm chú nhìn vào tấm bản đồ. Lát sau ông nói: “ Các ngươi hãy nghiêm chỉnh chấp hành lệnh của ta. Quan Hưng và Trương Bào đem một ngàn quân rút lui theo đường mòn ven núi Võ Công, gặp địch không được đánh lớn, giặc thua không được đuổi, chỉ reo hò làm kế nghi binh. Mã Đài và Khương Duy đem năm trăm quân đi sau chặn hậu. Trương Dực đem một đạo binh ... Quyết bảo toàn lực lượng.” . Bên cạnh Khổng Minh chỉ còn mấy vị quan văn và vài trăm sĩ tốt. Thám báo về tâu đại binh Tư Mã Ý đang kéo tới. Khổng Minh lên mặt thành quan sát thấy quân địch đông như kiến. Ông ra lệnh: “ Hạ tất cả cờ xí xuống. Mọi người im lặng tìm chỗ kín ẩn nấp. Ai lấp ló chém đầu. Ai nói to cắt cổ. Truyền mở toang bốn cửa thành. Mỗi cửa chỉ để hai chục tên lính ăn mặc như dân thường thong thả quét dọn, thấy quân địch không hoảng sợ, Thừa tướng đã có kế.” Xong xuôi Khổng Minh khoác áo lông hạc, đội mũ luân cân, tay cầm chiếc đàn ngọc có hai tiểu đồng theo hầu bước lên lầu ngồi xe dây dạo khúc nhạc du dương thánh thót.
      Quân Ngụy ào ạt xông đến thấy cảnh tượng lạ liền quay lại bẩm báo với Tư Mỹ Ý. Ông ta không tin, đích thân phi ngựa đến xem xét. Quả nhiên thấy Khổng Minh đang ung dung chơi đàn. Cửa thành mở, chỉ mấy tên lính lèo tèo đang quét dọn. Tất cả im phăng phắc đến kỳ lạ. Tư Mã Ý lòng đầy nghi hoặc. Hắn biết Gia Cát Lượng vốn rất đa mưu, là người cẩn trọng không bao giờ sơ hở, liều lĩnh. Cửa thành mở, quân lính vắng tất có phục binh, phải rút ngay kẻo trúng kế, lập tức thu quân bỏ chạy. Gia Cát Lượng cười lớn: “ Binh pháp Tôn Tử có câu “ Hư hư, thực thực” làm cho địch không đoán được kế của ta. Người dụng quyền khi bị dồn đến đường cùng, nếu không bình tĩnh tạo thời cơ tìm lối thoát thì sẽ chẳng bao giờ thoát. Nếu không chịu thua để quyết thắng thì sẽ chẳng bao giờ thắng”.
      Tháng 6 năm 1815 Hoàng đế Napoleon thống soái ba mươi vạn binh sĩ tấn công quân Anh do quận công Wellington chỉ huy với lực lượng chỉ bằng một phần ba trên chiến trường Bruxelles thuộc đất Bỉ. Thế mạnh như vũ bão tưởng đã nắm chắc phần thắng, Napoleon để pháo binh, bộ binh lại huy động toàn bộ kỵ binh tổng công kích hòng đè bẹp đối phương. Dù trong tình thế tuyệt vọng, nhưng Wellington, một vị tướng đã dạn dày trận mạc, đầy bản lĩnh và có tài phân tích xét đoán tình thế vẫn bình tĩnh tìm cách liên lạc với nguyên soái Blucher cầu viện binh, mặt khác cố bảo toàn lực lượng chờ thời cơ phản kích. Và, thời cơ đến: khi quân Pháp tràn tới cánh đồng làng Wateloo bỗng trời đổ mưa như trút nước. Mặt đất biến thành bùn nhão. Kỵ binh Pháp sa lầy. Cùng lúc viện binh do nguyên soái Blucher chỉ huy đến kịp. Lập tức Wellington tổ chức phản công. Vất vả lắm Napoleon mới thoát chết cùng mọt nhóm tàn quân tháo chạy. Thảm bại Wateloo đã kết thúc cuộc đời binh nghiệp đầy vinh quang của Hoàng đế Napoleon và đã đưa tên tuổi Wellington lên hàng danh tướng.
      Đó là Wellington đã thành công  Kế cơ quyền.
 
  4.   Kế liên quyền:
       Khi tương quan quyền lực bất lợi, người dụng quyền phải tổng hợp, phân tích mọi yếu tố về mục đích, quyền lợi, chính trị, quân sự, ngoại giao,kinh tế... có liên quan lâu dài, hoặc nhất thời, tổng thể hay cục bộ, cơ bản hay thứ yếu... để có kế sách liên minh với các đối tác khác nhằm tạo sức mạnh quyết định có tính chiến thuật hoặc chiến lược.
      Thời Chiến Quốc, để chống Tần, sáu nước Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề nghe nhà mưu lược nổi tiếng Tô Tần liên kết với nhau trong “Kế hợp tung”. Đối phó lại, Tần dùng “Kế liên hòanh” của Trương Nghi phá tan hợp tung thống nhất giang sơn.
      Cuối triều Đông Hán, thiên hạ đại loạn, Tào Tháo lộng quyền khuynh đảo xã tắc. Để chống lại, Gai Cát Lượng, quân sư của Lưu Bị bàn kế liên minh với Tôn Quyền, cho tướng Bàng Thống trá hàng “hiến kế” xui Tào Tháo dùng xích sắt cột các thuyền chiến lại với nhau. Đồng thời bằng “khổ nhục kế” tướng Hoàng Cái “vờ khuyên” Chu Du đầu hàng Tào Tháo cốt tạo cớ để Chu Du “nổi khùng” làm nhục và hành hạ mình. Nhờ thế đã lừa được Tào Tháo. Hoàng Cái viết thư trút hận lên Chu Du và xin được hàng Tào Tháo. Tháo chấp nhận. Hoàng Cái hẹn giờ dẫn đội thuyền cùng túc hạ của mình sang với Tào. Song thực ra thuyền chở toàn chất cháy. Trong khi đó Gia Cát Lượng lên chòi xem thiên văn biết có gió nồm Nam lớn thổi tới lập tức báo cho Chu Du phóng hoả làm nên trận Xích Bích lừng danh. Liên quân Ngô - Thục đại thắng. Tào Tháo đại bại. Thế chân vạc ba nước Ngụy - Thục – Ngô hình thành từ sau trận Xích Bích nổi tiếng này.
      Đó chính là kết quả của  Kế liên quyền.
      Đầu thế kỷ 19, để chống lại quân đội hùng mạnh của Napoleon, các quốc gia Châu Âu đã liên minh với nhau đoàn kết thành một khối buộc nhà quân sự đại tài đã từng làm mưa làm gió khiến cả thế giới lo sợ ấy phải chịu thảm bại ở chiến trường Nga. Và, năm 1814 cũng do áp lực của “Liên minh Châu Âu” Napoleon buộc phải thoái vị, bị lưu đầy trên đảo Elbe.
      Ngày nay trên thế giới ở những nước có nhiều tổ chức chính trị hoặc đảng phái thường liên minh với nhau để giành ưu thế quyền lực trong Nghị viện, hoặc trong Chính phủ.
      Những người dụng quyền muốn tạo sức mạnh quyền lực không thể bỏ qua  Kế liên quyền.
  
5.   Kế tập quyền:
      Quyền lực chỉ phát huy sức mạnh khi đảm bảo sự thống nhất và tập trung trên nền tảng dân chủ thực sự.  Dưới phục tùng trên, địa phương phục tùng trung ương. Chủ thể quyền lực quyết định kế sách chiến lược. Chủ thể quyền lực nắm cái chính để chi phối cái phụ. Nắm tổng thể để chi phối tiểu tiết. Nắm khái quát để chi phối cụ thể. Nắm lâu dài để chi phối trước mắt...
     Tập quyền nhưng không độc quyền. Tập quyền  thịnh. Độc quyền suy. Biên giới giữa tập quyền và độc quyền rất mỏng manh. Bởi thế phải có chế tài định rõ cho việc quản lý, vận hành quyền lực. Tập quyền thu hút sức mạnh cộng đồng và xã hội. Độc quyền ngược lại. Hơn thế còn gây sự phản kháng chống đối mà hậu họa khôn lường.
      Võ Tắc Thiên, nữ Hoàng đế duy nhất của lịch sử phong kiến Trung Hoa là bài học về tập quyền và độc quyền. Năm 660, khi Đường Cao Tông chính thức uỷ quyền nhiếp chính , Võ Tắc Thiên đã tiến hành hàng loạt biện pháp tập quyền và phát huy tối đa các yếu tố tích cực của cơ chế ấy. Ở ngôi vị cao nhất bà tỏ rõ trách nhiệm với đất nước, bằng trí thông minh tuyệt vời, sự hiểu biết sâu rộng, đúc kết kinh nghiệm trong lịch sử và các bậc tiền bối, làm việc cần mẫn, bản lĩnh sắt thép và tính quyết đoán bà đã quy tụ được trí tuệ và sức mạnh toàn xã hội đưa quốc gia tới phồn thịnh. Nhưng sau khi đã thâu tóm trọn quyền lực tự xưng Hoàng đế (năm 690), từ tập quyền bà chuyển sang độc quyền, từ minh quân bà trở thành bạo chúa, coi quyền lực thuộc sở hữu, biến nó thành công cụ phục vụ mục đích cá nhân. Bà ta lập ra và trực tiếp nắm “Viện cơ mật”. Thâu tóm và xử lý tất cả đơn từ mật báo không hề có cơ chế giám sát. 21 năm thống trị, 75 lần bà thay Tể tướng (Thủ tướng), trong đó 19 người bị giết, 22 bị lưu đầy, có người chỉ được 9 ngày đã bị truất, bình quân mỗi Tể tướng nhiệm kỳ chỉ được hơn ba tháng. Độc quyền đến mức chức quan Tư thái học sĩ thôi mà muốn xin nghỉ về thăm nhà phải dâng biểu, Nữ hoàng phê chuẩn mới được phép. Bà ta quyết định luật pháp, coi bộ máy quyền lực là của mình, coi tất cả cấp dưới đều là thần quan riêng, là đầy tớ, coi người dân như nô lệ. Độc quyền đã khiến triều đình thối nát, quốc gia suy vong, lòng người oán hận. Và tất nhiên độc quyền dẫn tới phản quyền. Năm 705, Tể tướng Trương Giản Chi đứng đầu cuộc nổi dậy được mọi người hưởng ứng. Võ Tắc Thiên bị bắt nhốt và chết thê thảm trong ngục tối.
      Đó là bài học cảnh báo cho bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào coi thường dân chủ hướng tới độc quyền.
  
6.   Kế phân quyền:
      Nếu tập quyền nhằm đảm bảo sự thống nhất, tập trung trong dụng quyền, thì phân quyền nhằm mở rộng, thu hút mọi mặt tài lực, nhân lực, vũ lực thiên hạ tạo sức mạnh tổng hợp.Các quốc gia có bộ máy nhà nước đầu tiên trên thế giới đều hình thành hệ thống chính quyền các cấp. Cấp trung ương đảm trách chức năng tập quyền và phân quyền cho các cấp địa phương. Cấp trên nắm quyền chính, cấp dưới nắm quyền phụ. Chính hay phụ đều rất quan trọng. Bởi tập quyền và phân quyền quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất. Dụng quyền giỏi là phải biết điều hành sao cho tập quyền và phân quyền hỗ trợ nhau, không cản trở, kìm chế nhau, không tổn hại nhau.  Làm được việc đó không dễ. Phần lớn các bậc đế vương trong lịch sử chỉ biết lo tập quyền, thậm chí độc quyền mà không giỏi phân quyền vì thế đã kìm hãm xã hội và chuốc lấy hậu họa. Nếu tập quyền phải xác lập cơ chế giám sát để không dẫn tới độc quyền thì phân quyền cũng phải có cơ chế để kiểm soát quyền. Đảm bảo chủ động việc thả quyền và thu quyền, khống chế, phòng ngừa lạm quyền, lộng quyền hoặc tranh chấp quyền. Bài học lịch sử thời tiền Hán còn đó. Sau khi thống nhất được thiên hạ, Hoàng đế Lưu Bang phong rộng rãi cho con cháu họ Lưu làm vua nắm quyền lực các nước chư hầu với mong muốn dùng quan hệ huyết thống để duy trì, bảo vệ nền thống trị của hoàng thất. Nhưng sự việc trái với lòng mong ước, hơn thế còn gây mầm đại họa, nhất là khi đã gạt trừ được phái Lữ Hậu mỗi người thuộc Hoàng tộc họ Lưu cát cứ một địa phương, chia rẽ, đối lập với chính quyền trung ương “tự tiện làm ra pháp luật, không dùng pháp luật nhà Hán”. Thế lực của họ mỗi ngày một lớn mạnh khiến triều đình không thể khống chế nổi, uy hiếp nghiêm trọng nền thống trị của Hoàng đế và cuối cùng họ công khai phát động cuộc nổi loạn khiến nhà Hán ngày một suy yếu rồi sụp đổ. Cho nên phân quyền mà không kiểm soát được quyền thì hậu họa sẽ khôn lường.
      Điều quan trọng là phải phân quyền cho đối tượng (tổ chức hoặc cá nhân) đáng tin cậy. Phân quyền gắn liền với dùng người. Dùng đúng người thì thành. Dùng sai người thì bại.
      Chiến tranh thời Tam Quốc thực chất là cuộc đấu trí. Gốc của trí là nhân tài. Tranh giành nhân tài là gốc của tranh giành quyền lực. Có nhân tài, biết dùng nhân tài là quyết định thắng lợi và ngược lại.Lưu Bị rất hiểu và đánh giá đúng Gia Cát Lượng, người có tâm sáng lòng rộng, chí lớn. Lấy đại nghiệp, vì xã tắc làm trọng. Đặt sự hưng thịnh quốc gia lên trên vinh nhục bản thân. Đa mưu túc kế mà khiêm nhường, chân thành và cao thượng sẵn sàng hiến thân vì trung nghĩa. Nghiêm khắc với bản thân. Công nhường cấp dưới, lỗi tự nhận về mình. Trận Nhai Đình do Gia Cát Lượng dùng người không chuẩn, cử Mã Túc, tuy hữu dũng nhưng vô mưu đảm trách tiên phong. Mã Túc còn tự phụ và bảo thủ không chấp hành lệnh của Gia Cát Lượng khiến Nhai Đình thất thủ. Để giữ nghiêm quân lệnh, dù đau đớn cắt ruột Gia Cát Lượng vẫn phải xử chém Mã Túc, hứa sẽ lo liệu cho gia quyến, vợ con Mã Túc chu đáo, đồng thời nhận rõ sai lầm của mình, xin Lưu Bang trị tội. Bản tấu ông viết : « Thần đã dựa vào tài năng nông cạn, giữ chức vụ không đủ sức đảm nhiệm, là nguyên soái vẽ ra sách lược chỉ huy toàn quân Bắc phạt Tào-Ngụy. Nhưng do thần không giữ đúng quy chương, quy pháp, vận dụng phép tắc kỷ cương thiếu nghiêm minh, xử lý việc thiếu cẩn thận để Mã Túc gây sai lầm ở Nhai Đình. Nguyên nhân là do thần dùng người không đúng, chưa hiểu rõ cấp dưới, gặp việc suy nghĩ chưa chu toàn. Căn cứ điều lệnh mọi thất lợi đều do chủ sự, thần phải chịu trách nhiệm. Thần thỉnh cầu Bệ hạ giáng ba cấp để xử tội của thần ». Nhà vua không thể không chấp thuận thỉnh cầu của Gia Cát Lượng cách chức Thừa tướng giáng ông xuống Hữu tướng quân. Bằng phẩm chất ấy ông được Lưu Bị tin cậy giao quyền lớn với tư cách đại quân sư. Đáp lại Gia Cát Lượng đã không phụ, đem tài năng kiệt suất của mình tận tâm phò tá minh chủ dựng nên nghiệp lớn, nhưng luôn giữ đúng đạo vua tôi. Điều hành mọi việc quốc gia đại sự mà không át vua. Đầy quyền lực, đủ điều kiện mà không bao giờ có dã tâm đen tối. Bệnh trọng, biết khó qua khỏi, Thái tử còn quá nhỏ, nhà vua ngỏ ý nhường ngôi cho Gia Cát Lượng, nhưng ông quyết không nhận chỉ xin nguyện làm quân sư phò tá ấu chúa trọn đời.
      Lưu Bị là người thành công trong việc vận dụng kế tập quyền và kế phân quyền, kế phân quyền với thuật dùng người. Nhờ thế nước Thục ngày càng mạnh, trụ vững trong thế ba chân thời Tam Quốc.
       Triều Đông Hán, Mã Viện là tướng tài xuất chúng. Ông là con cháu đời sau của danh tướng Triệu Xa thời Chiến Quốc. Mồ côi cha từ nhỏ, dựa vào các anh để sống. Còn nhỏ đã có chí lớn, các anh quyết cho Mã Viện đi học thi thư, binh pháp. Đời Vương Mãng bốn phương đại loạn. Mã Viện im lặng nhìn thiên hạ, lạnh lùng nghiên cứu thời cuộc. Cường hào Nguy Hiêu nổi binh cát cứ tự xưng « Tây Châu thượng tướng quân ». Công Tôn Thuật xưng đế ở đất Thục. Lưu Tú cũng lên ngôi Hoàng đế ở Nam Hạo. Thiên hạ hình thành bốn tập quyền. Mã Viện trước hết đến với Công Tôn Thuật. Mã Viện với Công Tôn Thuật đồng hương, lại cùng học, chơi với nhau rất thân thiết từ bé. Tiếp bạn cũ mà Công Tôn Thuật bày đặt nghi trượng, hộ vệ nghiêm mật, cung cách đế vương cốt phô trương uy quyền. Gặp nhau Công Tôn Thuật chỉ nói vài ba câu khách sáo, rồi ngự giá quay vào Hoàng cung, không ngừng gật đầu với các quan tả hữu rạp mình cung kính. Công Tôn Thuật muốn phong Mã Viện làm Đại Tư Mã, nhưng Mã Viện từ chối. Bởi qua cung cách, hành vi của Công Tôn Thuật ông cho rằng thiên hạ đang hỗn loạn, lòng dân ly tán, lúc này rất cần phải thu phục nhân tài, nhưng Công Tôn Thuật lại ngông nghênh tự phụ. Loại người này chẳng qua chỉ là ếch ngồi đáy giếng, không phân tích nổi thời thế, không biết dùng lễ nghĩa chiêu hiền đãi sĩ thì làm sao lập nên nghiệp lớn. Không thể cộng sự với ông ta được. Rời Công Tôn Thuật, Mã Viện tìm đến với Lưu Tú. Quang vũ đế Lưu Tú mặc quần áo bình dân nghênh tiếp Mã Viện, nét mặt tươi cười, tâm tình cởi mở hàn huyên cùng ông ngay hành lang cung Tuyên Đức, vẻ khiêm nhường nói : « Biết tiên sinh là bậc trượng phu, lại đã từng chu du khắp thiên hạ, tiếp kiến với các bậc đại vương. Hôm nay được ngài hạ cố tới thăm khiến tôi vô cùng vinh hạnh ». Mã Viện bái tạ đáp : « Trong thời thế này, chẳng những vua chọn tôi, mà tôi cũng phải chọn vua ». Đàm đạo hồi lâu với Lưu Tú, ông nhận ra rằng tư chất con người này xứng bậc đế vương, biết nhìn xa trông rộng, biết thu phục nhân tài, biết thương dân, lo việc nước, xứng làm minh chủ để phò. Mã Viện quyết định theo Lưu Tú. Lưu Tú coi ông như bậc đại phu. Đáp lại Mã Viện đã đem hết tài năng của mình đền đáp. Trong chiến dịch tiến quân đánh về phía Tây mở rộng lãnh thổ, Lưu Tú triệu Mã Viện tới bàn kế sách. Mã Viện đã dùng gạo xếp thành địa hình vùng đất Lương Châu với đủ rừng, núi, sông, ngòi, đường xá, đèo dốc ... để phân tích mưu lược và kế hoạch tác chiến. ( Mã Viện là người đầu tiên trong lịch sử chiến tranh lập sa bàn quân sự dùng cả trong chỉ huy, chiến đấu và huấn luyện ). Bằng mưu lược siêu phàm của Mã Viện và Lưu Tú là bậc minh chủ biết tôn trọng sử dụng mà triều Đông Hán đã có  được những chiến công lừng lẫy.
      Quách Gia người Dĩnh Xuyên. Từ nhỏ đã nuôi chí lớn, ẩn dấu thanh danh, bí mật kết thân với những anh hùng hào kiệt, rất ít chơi bời với lớp người phàm tục, do vậy thiên hạ biết đến ông không nhiều. Chỉ những bậc cao minh mới hiểu và quý trọng ông. Đầu tiên ông theo Viên Thiệu. Nhưng sau một thời gian quan sát phân tích, ông thấy Viên Thiệu không có tư chất của một nhân tài nuôi chí lớn,  dù quân nhiều tướng lắm, bề ngoài có vẻ hùng mạnh, cũng bắt chước Chu Công ngày xưa chiêu hiền đãi sĩ, nhưng thực ra chỉ vì hư danh thôi chứ không biết dùng người. Nhiều nghi ngờ, ít quyết đoán, mưu hay thì bỏ, mưu dở lại theo. Người như thế làm sao lập nên nghiệp bá. Nhân tài trước sau cũng sẽ bỏ ông ta mà đi. Bậc trí giả phải biết chọn lựa minh chủ thì mới có thể bách cử bách toàn và công danh khả lập. Ông quyết định rời bỏ Viên Thiệu. Được Tuân Húc, người cùng quê, mưu thần kiệt suất của Tào Tháo tiến cử. Quách Gia yết kiến Tào Tháo. Lúc này, Tháo đã nghênh đón Hán Hiến Đế về Hứa Đô để « mượn quyền » vua điều khiển chư hầu. Có nghĩa trên mặt trận chính trị Tào Tháo đã giành thế chủ động, đồng thời đang khát khao tìm kiếm nhân tài. Hai người say sưa đàm đạo việc thiên hạ đại sự. Quách Gia nhận thấy Tào Tháo đúng là bậc hùng tài đại lược, sắc sảo quyết đoán xứng đáng minh chủ. Còn Tào Tháo thì kinh ngạc trước sự uyên bác của bậc kỳ tài Quách Gia, đầy tư chất của nhà mưu lược, có năng lực quan sát, phân tích, đánh giá toàn cục và dự kiến tương lai. Dù giả định đặt trong tình thế xấu nhất cũng tìm ra được diệu kế để vượt qua và chiến thắng. Tào Tháo vui mừng thốt lên : « Người giúp ta thành tựu đại nghiệp nhất định phải là ông đó». Và bổ nhiệm Quách Gia làm Tư Không quân. Đáp lại sự tin cậy của chủ Quách Gia đem hết tài năng phục vụ và trở thành mưu thần xuất chúng giúp Tào Tháo làm nên nghiệp lớn. 
      Mới biết  thuật dùng người  không chỉ có nghĩa cấp trên chọn cấp dưới, vua chọn tôi, mà ngược lại cả cấp dưới chọn cấp trên, tôi chọn vua.
  
 7.   Kế cân quyền :
      Phát triển bắt nguồn từ ổn định. Ổn định bắt nguồn từ cân bằng. Tuy nhiên trên thực tế một tổ chức, một cộng đồng, một quốc gia, một xã hội không ngừng biến động, không ngừng phát sinh sự khác nhau, bất đồng thậm chí mâu thuẫn đối lập nhau về chính kiến, về quan điểm, về quyền lợi, về phương pháp ... giữa các phe nhóm, các thế lực, các cá nhân tạo ra những xung đột gây tổn hại tới hiệu quả quyền lực.  Bởi thế, chủ thể dụng quyền phải biết đầy đủ, hiểu sâu sắc mọi yếu tố để xác định đối sách nhằm giữ cân bằng tạo sự ổn định, phát triển .
       Triều nhà Thanh (Trung Hoa), hai thế lực chính luôn luôn xung đột. Một bên là giai cấp đại quý tộc, công thần tham lam và tàn bạo mà tiêu biểu là Hoà Đại Nhân, một tên loạn thần bất chấp mọi thủ đoạn nhằm khuynh đảo triều chính. Một bên là những quan trung thần tâm huyết với quốc gia được nhân dân tin cậy ủng hộ tiêu biểu là Lưu Dung. Hoàng đế Khang Hy là bậc minh chủ. Ông biết rằng hai thế lực đó lúc này không thể diệt một, cũng không thể diệt cả hai, càng không thể để chúng diệt nhau sinh đại loạn. Là Hoàng đế, với tư cách chủ thể quyền lực ông luôn tìm cách duy trì thế cân bằng, hạn chế những tác động tiêu cực nhằm đảm bảo sự ổn định. Nhờ vậy mọi bất hoà đều được kiểm soát và kiềm chế, xã tắc yên bình, quốc gia cường thịnh.
      Thời Chiến Quốc, có lần Tề Hoàn Công ra lệnh : « Quả nhân sắp lập Quản Trọng làm trọng phụ. Người nào tán thành thì bước qua bên trái. Người nào không tán thành thì bước qua bên phải ». Đông Quách Nha không qua phải cũng không qua trái. Tề Hoàn Công hỏi : « Nhà ngươi đứng ở giữa là nghĩa làm sao ? ». Quách Nha thưa : « Bệ hạ cho rằng cái khôn của Quản Trọng có thể lo được việc xã tắc chăng ? ». Hoàn Công đáp :  « Lo được ». Nha lại thưa : « Bệ hạ cho rằng ông ta dám làm việc lớn sao ? ». Hoàn Công đáp : « Dám làm ». Nha lại thưa : « Bệ hạ biết cái khôn của ông ta có thể lo được mọi việc của xã tắc, cái chí của ông ta dám làm việc lớn vì thế Bệ hạ trao hết quyền vào tay ông ta. Vậy là ông ta có cả thực quyền lớn và thế quyền tối đa. Bệ hạ không lường tới mối hiểm nguy sao ? ». Suy nghĩ một lát, Tề Hoàn Công gật đầu : « Phải lắm », bèn giao Thập Bằng lo việc bên trong, Quản Trọng lo việc bên ngoài tạo thế cân quyền giám sát nhau và nhà vua cũng kiểm soát được cả hai, tránh lộng quyền át chủ phòng ngừa hậu họa.
      Khang Hy và Tề Hoàn Công thật cao tay trong dụng Kế cân quyền.
  
 8.   Kế khống chế quyền :
      Trong quyền lực có cả thánh lực và ma lực, có chính và tà mà gianh giới rất mỏng manh. Thành bại luôn cận kề nếu không biết hoặc cố tình bỏ qua gianh giới ấy. Bởi thế trong dụng quyền không thể thiếu kế khống chế quyền . Khống chế quyền nhằm đặt quyền lực vào đúng vị trí, phát triển đúng hướng và vận hành đúng quy định bằng hệ thống thể chế nghiêm ngặt được áp dụng cho tất cả mọi chủ thể quyền lực từ cao nhất đến thấp nhất. Kèm với tập quyền và phân quyền phải có khống chế quyền cốt để tập quyền mà không thể độc quyền, phân quyền mà không thể lộng quyền, át quyền, tranh quyền, hoặc cát cứ quyền...
      Làm được việc ấy không dễ. Hầu hết các bậc đế vương trong lịch sử, khi khởi nghiệp thì cùng huynh đệ gắn bó ruột thịt, đồng cam cộng khổ chia sẻ hoạn nạn, quy tụ nhân tài thiên hạ, hết lòng tận tâm vì dân vì nước xây dựng quốc gia hưng thịnh. Nhung khi đã lập nên đại nghiệp lập tức thâu tóm quyền lực, tàn sát công thần, coi xã tắc là của riêng, coi thuộc hạ như tôi tớ, coi thần dân như nô lệ  khiến triều chính bất hoà, lòng người phẫn uất, quốc gia suy vong. Gương tiền nhân như Việt vương Câu Tiễn, Tần Thuỷ Hoàng, Lưu Bang,Võ Tắc Thiên, Chu Nguyên Chương, Từ Hy Thái Hậu ... Tất nhiên họ đều phảỉ chịu thảm bại. Vì sao ? Vì những chủ thể quyền lực ấy hoặc không biết, hoặc không muốn dụng kế khống chế quyền. Thực tế chứng minh chủ thể quyền lực (tổ chức hoặc cá nhân) từ cấp cao nhất tới thấp nhất nếu không xác lập hoặc không tuân thủ những quy định về khống chế quyền tất sẽ dẫn tới độc quyền và nhất định sẽ thất bại. Kết quả bi thảm mà Hít-le và « Đảng Quốc xã » của hắn, Ngô Đình Diệm và « Đảng Cần lao nhân vị » của ông ta phải gánh chịu là bài học cảnh báo cho tất cả mọi chủ thể quyền lực dám coi thường khống chế  quyền.
  
 9.   Kế củng cố quyền :
      Đạt được quyền lực khó, nhưng giữ được còn khó hơn. Lịch sử không thiếu người giỏi thao túng quyền lực nhưng củng cố được quyền lực trọn vẹn đến cùng hầu như chẳng có mấy. Bởi thế củng cố quyền là kế không thể coi nhẹ, không thể thiếu đối với mọi chủ thể dụng quyền. Việc củng cố phải được thực hiện cùng lúc cả thực quyền và thế quyền.
      Với thực quyền : là không ngừng trao dồi học vấn, tổng kết kinh nghiệm, phương pháp tư duy và tu dưỡng đạo đức nhân cách. Học vấn không nhất thiết phải qua trường lớp, hoặc nhiều bằng cấp mà cái chính là tự học và suy ngẫm, là rút ra những bài học quý từ mình, từ người, từ thành công và thất bại, từ quá khứ và hiện tại, từ trong và ngoài đường đời. Trí tuệ siêu phàm, đạo đức thánh nhân như Khổng Tử, hoặc Hồ Chí Minh chủ yếu là kết quả của tự học, tự tu dưỡng.                          
       Với thế quyền : cần làm cho các chủ thể quyền lực cả cấp trên và cấp dưới nhận biết, khẳng định đúng thực quyền của mình, qua đó càng tin cậy, giao phó, uỷ thác trọng trách xứng đáng. Không chấp nhận mọi hành vi gian trá, lừa lọc, mỵ dân để có thực quyền. Đó là thực quyền giả. Không chấp nhận mọi hành vi chạy chọt, đút lót, bè cánh lôi kéo để có thế quyền. Đó là thế quyền giả. Chân lý cuộc sống không dung nạp đồ giả dù che đậy tinh vi đến đâu trước sau cũng bị phơi bày và chịu hậu họa. Dùng quyền lực giả quả báo sẽ khôn lường.
      Lịch sử chứng minh các triều đại, các tổ chức, cá nhân quyền lực, hoặc không lo củng cố quyền, hoặc không củng cố quyền bằng tâm, nhân, trí, đức bằng văn hoá, trái lại dùng thủ đoạn để lừa gạt, dùng độc tài để trấn áp, bất chấp luật pháp và đạo lý đều phải chuốc bại vong thê thảm.
      Triều nhà Thương, Trụ Vương nổi tiếng xa xỉ, dùng ngà voi làm đũa. Cơ Tử thấy vậy lo lắng than rằng : « Dùng ngà voi làm đũa rồi sẽ dùng sừng tê giác, bảo ngọc làm bát, rồi sẽ đòi ăn bao tử con báo, con sư tử và thịt động vật quý hiếm. Rồi sẽ không chịu ở nhà gỗ, mặc quần áo vải thô mà phải ở lâu đài cung điện , mặc nhung y gấm vóc. Ta sợ kết cục diệt vong của Trụ Vương bắt đầu từ đây ». Quả nhiên năm sau Trụ Vương vơ vét quốc khố bắt dân lao dịch xây Nhục Viên (nơi hành lạc), ăn chơi truỵ lạc, cuối cùng bị Thành Thang cùng quần thần nổi lên giết chết.
      Khác Trụ Vương, Hán Văn đế Lưu Hằng là nhà vua hiền minh và nổi tiếng giống giản dị, liêm chính. Ông đề xướng và làm gương trăm họ, quần thần. Ngoài triều ngự ra chỉ mặc quần áo bình thường, Hoàng hậu cũng không mặc váy dài quét đất để tránh lãng phí, không đồ trang sức quý, giường tủ, bàn ghế, chăn đệm trong cung cũng không chạm trổ, thêu thùa cầu kỳ. Nhà vua sống giản dị nên quần thần cũng theo gương không dám sa hoa. Cho đến khi mất Hán Văn đế vẫn giữ được nếp sống ấy, thậm chí trước khi qua đời nhà vua di chúc lại cặn kẽ lễ tang của mình : « Vạn vật trong thiên hạ không tránh khỏi cái chết. Đó là quy luật. Tại thế ta chưa làm được bao nhiêu điều tốt cho trăm họ, nếu chết rồi lại để trăm họ phải phục vụ tang ta tốn kém, vất vả thì càng làm tăng thêm tội của ta. Vì vậy ta ra lệnh cho bá quan, trăm họ sau khi an táng ta ba ngày đều bỏ tang. Khăn tang không quá ba tấc, không dùng linh sa, binh khí, không điều động trăm họ đến dự lễ. Sau khi ta chết, trừ phu nhân, còn tất cả cung nữ đều được trở về quê nhà sinh sống ». Nhờ gương sáng của Hoàng đế mà bách nghệ được khôi phục, phát triển, mọi người quan tâm đến lễ nghĩa, sống cần kiệm, cần cù chăm chỉ, đất nước phồn thịnh. Những người kế vị noi theo đức độ của Tiên vương tận tâm với xã tắc, hết lòng thương yêu trăm họ, nhờ thế triều chính ngày càng được củng cố vững vàng.
      Ngô Khởi người nước Vệ. Ở nước Vệ không có đất thi thố tài năng liền bỏ sang nước Lỗ theo học Tăng Tử (Tăng Tử là học trò Khổng Tử). Mẹ ở nước Vệ chết, Ngô Khởi không về chịu tang, can tội bất hiếu. Đó là điều tối kỵ của Đạo Nho nên Tăng Tử tức giận đuổi không cho học. Ngô Khởi bỏ văn, học võ. Được Tướng quốc nước Lỗ là Công Nghi Hưu trọng dụng tiến cử làm quan Đại phu. Nước Tề bành chướng cất quân đánh nước Lỗ. Công Nghi Hưu muốn cử Ngô Khởi làm Đại tướng quân song còn e ngại bởi vợ Ngô Khởi là con gái một quan Đại phu nước Tề sợ lâm trận Ngô Khởi không quyết đoán. Ngô Khởi biết, đã đang tâm giết vợ, sẵn sàng can tội bất nghĩa để tỏ lòng trung thành với vua Lỗ. Được làm Đại tướng cầm quân đánh thắng Tề, song việc làm phi đạo của Ngô Khởi khiến mọi người lên án và vua nước Lỗ thấy không thể trọng dụng liền thu hết binh quyền, không luận công thăng thưởng. Kết cục Ngô Khởi phải rời nước Lỗ sang nước Ngụy. Ngô Khởi được Ngụy Văn Hầu phong Đại tướng quân, lập nhiều chiến công hiển hách đánh Tề, Tần ... Công nhiều lắm kẻ ghét, hơn nữa với nhân cách ấy Ngô Khởi bị quần thần khinh bỉ và vua Ngụy Vũ Hầu (kế vị Ngụy Văn Hầu) cách chức phải rời bỏ nước Ngụy ra đi như kẻ mạt vận. Ngô Khởi tới nước Sở, được Sở Điệu Vương phong làm Tướng quốc. Với tài năng xuất chúng, ông tiến hành những cải cách lớn đưa nước Sở hùng mạnh rất nhanh, song cũng gây biết bao thù oán, nhất là với giới quý tộc. Năm 381 trCN Sở Điệu Vương qua đời . Bọn quý tộc phản công, Ngô Khởi bị giết chết.
      Ngô Khởi là người vừa có tài thao lược vừa giỏi quản lý đất nước. Thực quyền và  thế quyền  đều lớn . Nhưng không  biết lo  củng cố quyền  bằng sự tu dưỡng rèn luyện, sống bất nhân thất đức nên phải nhận kết cục bi thảm.
      Một khía cạnh khác của củng cố quyền là đối nội cần ổn định. Muốn ổn định phải đoàn kết. Trong tất cả việc quan trọng thì ổn định và đoàn kết là quan trọng nhất.Mất đoàn kết nội bộ, sự tàn phá gấp nhiều lần hiểm họa từ bên ngoài và tiêu vong sự nghiệp nhanh nhất.Về đối ngoại là mở rộng bang giao thân thiện có nguyên tắc. Đồng thời phải lường tính hết mọi phản quyền để chủ động lập kế hoạch phòng ngừa đối phó sớm nhất.
   
10.   Kế kế quyền :
      Quyền lực hữu hạn với bất kỳ chủ thể nào. Có nghĩa mọi chủ thể quyền lực đều phải thoái quyền để chủ thể khác kế quyền. Tuy nhiên thoái quyền thế nào và kế quyền ra sao lại là vấn đề mà khoa dụng quyền phải nghiên cứu vận dụng.
   Thoái quyền :  Người hiểu mình, hiểu đời lắm mới biết thoái quyền đúng mục đích, đúng cách, đúng lúc. Biết bao kẻ vì không nhận rõ điều ấy mà thân bại, danh liệt. Cổ nhân đã dạy : « Khi thượng phong phải nghĩ tới lúc hạ mạt ». Biết lên không được, ở lại không được, chờ thời để tiến cũng không được thì phải tìm cách thoái lui.
      Học thuyết Lão Tử (nhà tư tưởng lớn Trung Hoa thế kỷ 6 trCN) lấy  Vô vi  làm gốc. Cơ sở để đạt được Vô vi là : « Vô dục » (Không để dục vọng và tham vọng chi phối mình). « Vô tranh » (Không tranh giành với ai thì cũng không ai tranh giành với mình), « Tri túc » (Phải biết thế nào là đủ để dừng) và « Thủ thế » (Biết lấy lùi để tiến). « Kế tẩu vi thượng » trong « Binh pháp Tôn Tử » dạy :  « Nếu biết không thể thắng sẽ có ba cách : đầu hàng, cầu hoà và lùi. Đầu hàng là thất bại hoàn toàn. Cầu hoà là thất bại một nửa. Lùi là mấu chốt bất bại để tất thắng ».
      Bởi thế, trước hết phải xác định mục đích thoái :  « Lui » hay « Lùi » ?
      « Lui » là rút để nghỉ.  « Lùi » là dừng để tiến. Hãy lựa chọn !
      Có hai cách thoái quyền : « Chủ động » và « Bị động » . Hãy lựa chọn !
      Có ba thời điểm thoái quyền : « Nên thoái », « Cần thoái » và « Phải thoái ». Hãy lựa chọn !
      Người hiểu mình, hiểu đời thì chắc chọn cách « Chủ động » vào thời điểm « Nên thoái » chứ không để đến khi « Bị thoái » hoặc « Phải thoái ».
      Ở đời những kẻ cố bám quyền thì nhiều, nhưng tỉnh táo sáng suốt biết thoái quyền rất ít. Mấy ai được như Phạm Lãi thời Xuân Thu biết thoái đúng lúc, đúng cách, đúng mục đích vừa tránh được tai họa vừa lưu danh muôn thuở. Là mưu thần kiệt suất giúp Việt vương Câu Tiễn bình Ngô diệt Phù Sai. Sau khi thắng lợi, nhận rõ bản chất Câu Tiễn thuộc loại tham quyền ích kỷ, chung hoạn nạn chứ không cùng hưởng vinh quang, trước sau cũng thành bạo chúa diệt công thần thâu tóm quyền lực, Phạm Lãi tự nguyện rút khỏi mọi quyền chức, mau chóng rời nước Việt sang nước Tề, thay tên đổi họ, kinh doanh buôn bán, dùng tiền giúp bạn bè và những người nghèo khổ, được đời sau tôn vinh là « Thánh Đào Chu Công ». Trái lại Văn Chủng cũng là bậc đại phu vì không nghe lời khuyên của Phạm Lãi vẫn trung thành phò tá Câu Tiễn, rút cuộc bị Câu Tiễn giết hại. Giống Phạm Lãi, Trương Lương giúp Lưu Bang diệt xong Tần lập ra nhà Hán liền bỏ đi ở ẩn. Trần Hưng Đạo dẹp tan giặc Nguyên Mông rời Kinh Đô về Kiếp Bạc làm nghề nông, trồng cây thuốc chữa bệnh cho dân và viết « Binh thư ». Nguyễn Trãi giúp Lê Lợi đánh xong giặc Minh ẩn dật nơi Côn Sơn làm thơ viết sách...
   Ở nước ta, triều Trần, mười bốn đời vua kế tiếp nhau. Tuổi bình quân khi lên ngôi là 17,5. Từ lập quốc chỉ đến triều Trần mới có chế độ Thái Thượng hoàng. Tuổi bình quân các vua Trần khi thoái quyền nhường ngôi làm Thái Thượng hoàng là 38,5. Làm Thái Thượng hoàng nhưng vẫn nắm chắc tình hình đất nước và kèm cặp vua trẻ điều hành xã tắc. Một quốc gia, Thái Thượng hoàng tuổi bình quân xấp xỉ 40, vua trực tiếp quản lý giang sơn tuổi bình quân xấp xỉ 18, quốc gia ấy nhất định hùng mạnh và thực tế đúng như vậy.
      Năm 1814, Napoleon sau thất bại nặng nề trên chiến trường Nga và trước áp lực của « Liên minh Châu Âu », ông ta nhận ra rằng không thể tiếp tục ngôi Hoàng đế. Cố bám giữ quyền lực tối cao ấy tất sẽ bị tiêu diệt. Mục đích lúc này là tồn tại. Tồn tại được thì còn. Bị tiêu diệt là hết. « Binh pháp Tôn Tử » dạy : « Phải tìm cách không cho địch thắng để đợi thời cơ thắng địch ». Tỉnh táo sáng suốt phân tích thời cuộc cả quân sự,chính trị, ngoại giao, cả thực tế và xu thế, Napoleon biết rằng thời cơ còn, bởi thế ông ta quyết định thoái vị và chấp nhận bị lưu đầy tại đảo Elbe cùng với 1000 lính (6-4-1814). Tuy rời ngai vàng, nhưng ông ta vẫn theo dõi mọi biến động chính trị. Ở Pháp nhân dân luyến tiếc chế độ tự do dân chủ dưới thời Napoleon, phản ứng quyết liệt chế độ tập quyền phong kiến hà khắc của vương triều Bourbon khi quay lại thống trị. Còn các nước trong « Liên minh Châu Âu » thì mâu thuẫn gay gắt với nhau khi phân chia quyền lợi. Thời cơ phục quyền đã tới. Ngày 1-3-1815 Napoleon dẫn hơn 1000 quân rời đảo Elbe đổ bộ lên Cane và tiến thẳng về Paris. Vốn là một Hoàng đế tài giỏi uy danh lừng lẫy, tới đâu ông cũng được nhân dân và quân đội ủng hộ. Louis XVIII hốt hoảng bỏ thạy sang Anh. Ba tháng sau Napoleon chiếm lại ngai vàng.
      Phạm Lãi, Trương Lương, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi và các vua Trần đã để lại cho lịch sử những bài học về  thoái lui quyền lực. Đó là những người thoái quyền đúng mục đích, đúng cách, đúng thời điểm và mãi mãi được lịch sử tôn vinh. Rất tiếc vẫn có không ít kẻ đầy tham vọng cố bám quyền một cách mù quáng gây tổn hại cho cộng đồng và xã hội để rồi phải nhận kết cục thảm hại, bị lịch sử lên án và hậu thế chê trách.
      Cùng với thoái quyền là thực thi kế quyền. Biết bao gia đình tan nát, cơ quan sụp đổ,doanh nghiệp phá sản, quốc gia suy vong bởi không chọn được chủ thể kế quyền xứng đáng. Đây là việc phải làm liên tục, rất quan trọng, rất công phu, rất khoa học, đặc biệt phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo, tuyển chọn và sử dụng nhân tài. Mọi cấp, mọi nơi, mọi ngành, mọi nhà, mọi người phải cùng lo việc đào tạo nhân tài mới có nguồn để tuyển chọn cho kế quyền ở mọi cương vị, mọi lĩnh vực. Cốt lõi của tuyển chọn là dùng người. Cốt lõi của dùng người là hiểu người. Hiểu đúng, đánh giá đúng, chọn kế quyền đúng thì hưng. Hiểu sai, đánh giá sai, chọn kế quyền sai thì vong.
      Năm 626, Hoàng đế nhà Đường là Lý Uyên thoái vị, không chọn con cả kế quyền mà chọn con thứ là Lý Thế Dân. Bởi ông hiểu Lý Thế Dân là người có tâm sáng, lòng rộng, chí lớn, văn võ song toàn, biết quản lý điều hành xã tắc. Ông đã chọn đúng. Lý Thế Dân tiếp nhận vương quyền, rút kinh nghiệm hưng vong của các triều trước, vi hành khắp thiên hạ để khảo sát dân tình và tiến hành hàng loạt cải cách lớn xây dựng nhà Đường thành quốc gia hùng mạnh, nước thịnh, dân an, mở rộng ảnh hưởng ra bên ngoài tạo thanh thế.
      Thời Xuân Thu, Tề Hoàn Công nhờ chọn Quản Trọng làm quân sư mà nước Tề từ yếu trở nên siêu cường. Quản Trọng bị bệnh nặng, Tề Hoàn Công lo lắng hỏi : « Nếu bá phụ mệnh hệ nào thì ai có thể thay thế ? ». Quản Trọng đáp : « Hiểu con không ai bằng cha. Hiểu bề tôi không ai bằng vua. Vậy theo Bệ hạ thì ai có thể thay ? ».Tề Hoàn Công hỏi : « Dịch Nha được không ? ». Dịch Nha là cận thần. Có lần nghe nhà vua than : « Sơn hà hải vị ta trải cả rồi, giờ chỉ thèm thịt trẻ em xem mùi vị ra sao ». Dịch Nha về cắt thịt đùi đứa con út của mình dâng vua. Nhà vua cho rằng Dịch Nha lòng trung không ai có, coi vua hơn sự sống con mình. Quản Trọng lắc đầu : « Giết con mình để lấy lòng vua là trái đạo từ, thất nhân tâm, không chỉ ông ta mang tiếng ác mà gieo cả điều ác cho Bệ hạ. Không thể được ». Vua lại hỏi : « Khai Phương thế nào ? ». Khai Phương là người nước Vệ, hầu hạ Tề Hoàn Công suốt mười lăm năm không về thăm cha mẹ. Tề Hoàn Công cho rằng Khai Phương coi vua hơn cả người sinh ra mình, đó là bậc trung thần. Quản Trọng lắc đầu : « Cam tội bất hiếu để được lòng vua là không hợp đạo làm con. Tự mang tiếng xấu còn làm tổn hại đến lòng nhân từ của vua . Người này cũng không được ». Vua lại hỏi : «  Vậy Thụ Điêu thì sao ? ». Thụ Điêu biết Tề Hoàn Công háo sắc nên đã tự thiến mình làm quan hoạn (đại nhục như tội hình) để được phục vụ vua với các mỹ nữ. Nhờ thế vua rất tin cậy. Quản Trọng lắc đầu : « Đến bản thân mà hắn còn không thương tự huỷ hoại thì hắn còn biết thương ai. Loại này càng không được. Cả ba người ấy đều không đủ tín, đức, uy để yên lòng dân, để quần thần tâm phục, khẩu phục và để giữ bang giao với các nước ». Vua lại hỏi : « Vậy ai được ? ». Quản Trọng đáp : « Thập Bằng được. Đó là người bên trong thì bản lĩnh, bên ngoài thì liêm khiết, không để tham vọng, dục vọng lôi kéo, là gương sáng để thu phục lòng dân, làm được việc lớn, giữ được hữu hảo với các nước lân bang ».
      Tiếc thay Quản Trọng chết, vua không dùng Thập Bằng mà chọn Thụ Điêu. Thụ Điêu thâu tóm quyền lực cấu kết với Dịch Nha và Khai Phương làm phản. Tề Hoàn Công bị bắt, bị bỏ đói và chết thê thảm trong ngục tối. Trước khi chết ông ta tự trách mình không nghe lời khuyên của Quản Trọng, dùng người không suy xét kỹ mọi mặt mà chỉ theo ý mình nên phải nhận nỗi nhục này.
      Kế quyền nói riêng, quyền lực nói chung là thế. Đúng – Sai liền với Phúc - Họa.
 
QUYỀN  MƯU 
 
      Theo ngữ nghĩa gốc Hán tự « quyền » là quả cân. Muốn biết một vật nặng bao nhiêu phải treo hoặc đặt vật đó lên rồi xê dịch quả cân đến vị trí chuẩn xác. « Mưu » bắt nguồn từ chữ « Mẫu ». « Mẫu » là mẹ. Để duy trì cuộc sống bản thân, con cái và gia đình người mẹ phải hết sức năng động ứng phó với mọi điều kiện cả tự nhiên và xã hội. “Quyền mưu” chính là khả năng ứng biến để đảm bảo sự cân bằng và phát triển theo cái đích đã xác định. Cái đích đã xác định ấy là “mưu lược”. “Quyền mưu” là bộ phận của “mưu lược”. “Mưu” là kế tức thời. “Lược” là sách lâu dài. “Mưu” động. “Lược” tĩnh. Quyền mưu thuộc phạm trù năng lực tư duy và hành động của con người, bao gồm:
  
1.   Mục đích quyền mưu:
      -      Thiện.
      -      Ác.
      -      Cả thiện và ác.
     Mục đích quyền mưu thiện  gắn với sự quang minh, chính đại. Dù ban đầu có phải chịu biết bao gian khổ, vất vả, đau đớn, nhưng nhất định thắng. Dẫu có thất bại nhất thời cũng không nhục.
     Mục đích quyền mưu ác  gắn với những thủ đoạn thấp hèn thì dù nhất thời chiến thắng cũng không vinh và nhất định sẽ thất bại. (Ở đời thắng đâu đã là vinh và bại đâu đã là nhục. Vinh, nhục là ở mục đích quyền mưu).
     Mục đích quyền mưu cả thiện và ác  thì phần thiện sẽ thắng, sẽ vinh. Phần ác sẽ bại, sẽ nhục.
      Bởi thế đánh giá quyền mưu trước hết phải xem xét mục đích quyền mưu.
 
 2.   Cấu tạo quyền mưu:
      Quyền mưu gồm bốn yếu tố cấu thành:
   -   Chủ thể quyền mưu: là đối tượng phát ra quyền mưu, hoặc quyết định việc thực hiện quyền mưu để đạt mục đích đã định. Nói cách khác chủ thể quyền mưu gồm hai khái niệm: tác giả quyền mưu và người quyết định việc sử dụng quyền mưu. Có thể vừa là tác giả vừa là người quyết định. Có thể chỉ là tác giả nhưng không được quyền quyết định. Chính vì thế đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả quyền mưu.
      Thời Chiến Quốc nước Tần cử tướng Vương Hột đem đại binh tấn công nước Triệu. Quân Triệu do tướng Liêm Pha chỉ huy nghênh chiến. Thế giặc như lũ bão, quân Triệu thua liên tiếp bị truy đuổi đến tận Trường Bình. Lão tướng Liêm Pha, người đã dạn dầy trận mạc vẫn bình tĩnh. Ông phân tích tình hình: thế giặc mạnh, nhưng chúng đã vào sâu lãnh thổ nước Triệu, việc cung ứng hậu cần sẽ rất khó khăn, không thể duy trì chiến đấu lâu dài. Ông lập tức chủ trương phòng ngự chiến lược: không đánh, ẩn dấu lực lượng, thực hiện vườn không nhà trống, luỹ cao, hào sâu, dựa vào địa thế rừng rậm, núi non hiểm trở để cố thủ bảo toàn, củng cố và tăng cường binh lực đợi thời cơ phản công. Quân Tần đánh không được, rút lui cũng không xong, lương thực cạn, tinh thần chiến đấu cả tướng sĩ đều suy giảm, Vương Hột biết chắc sẽ nếm đòn thất bại liền trình báo lên vua Tần. Là người am hiểu chiến trận, vua Tần biết Liêm Pha là danh tướng nhiều quyền mưu, nếu không diệt hoặc không loại được Liêm Pha thì khó tránh khỏi thảm bại. Nắm biết tình hình nội bộ triều chính nước Triệu, hiểu rõ tư chất vua quan nước Triệu, ông ta liền sai người bí mật mang vàng bạc, châu báu mua chuộc hối lộ các cận thần đông thời cử gián điệp giả nhà buôn sang Triệu tung tin rằng “Liêm Pha già yếu rồi, nhát gan không dám đánh Tần chỉ mong cầu an hưởng lộc thôi. Nước Tần rất sợ tướng trẻ nước Triệu là Triệu Quát thống lĩnh quân đội ”. Vua Triệu Hiến Vương vốn không biết gì về binh thư chiến trận, nhưng  rất muốn tỏ ra mình đầy quyền lực, lại vốn không hài lòng việc án binh bất động của Liêm Pha, nay nghe tin ấy liền cử người đến Trường Bình truyền lệnh cho Liêm Pha phải xuất chiến ngay. Liêm Pha cho rằng thời cơ chưa chín, phiêu lưu là chết, ông “bất tuân lệnh vua”. Nhà vua càng tức giận, lại nghe mấy cận thần đã bị nước Tần mua chuộc kích vào lập tức cách chức Liêm Pha bổ nhiệm Triệu Quát thay thế. Vậy là vua Triệu đã trúng kế của vua Tần.Không chỉ có vậy, vua Tần còn bí mật rút Vương Hột về cử Bạch Khởi, một lão tướng đã dạn dầy trận mạc đích thân chỉ huy đánh Trường Bình mà quân Triệu không hề biết. Triệu Quát là tướng bất tài, không có kinh nghiệm  nhưng rất tự phụ. Vùa tiếp nhiệm ông ta liền thay đổi chiến lược, bỏ phòng ngự, xuất kích mù quáng, kết quả bị quân Tần dồn vào thế vây hãm trùng trùng điệp điệp. Cuộc chiến diễn ra rất nhanh. Triệu Quát tử trận, hầu hết quân Triệu bị tiêu diệt, những người bị bắt đều bị chôn sống.
      Trận Trường Bình hai tác giả quyền mưu là lão tướng Liêm Pha và tướng trẻ bất tài Triệu Quát với hai chủ trương chiến lược khác nhau. Người quyết định  sử dụng quyền mưu nào lại là ông vua hồ đồ cậy quyền lực là Triệu Hiến Vương. Ông ta bỏ mưu cao, chọn kế thấp. Kết quả chịu thảm bại nhục nhã. Đó là bài học sâu sắc cho hậu thế, đặc biệt với những kẻ bất tài nhưng đứng đầu quyền lực.
   -   Khách thể quyền mưu:  là đối tượng chủ thể quyền mưu hướng tới. Đồng thời  là nơi tung ra quuyền mưu, hoặc quyết định quyền mưu đáp trả đối phương để đạt mục đích của mình. Cũng gồm hai khái niệm: tác giả quyền mưu và người quyết định sử dụng quyền mưu.
  
   -   Trường thể quyền mưu:  là môi trường gồm cả các yếu tố chủ quan, khách quan, cả tự nhiên, xã hội như chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế,văn hoá, cả năng lực, tính cách từng con người và quan hệ cá nhân, cả địa điểm, thời gian, thời tiết, cho tới cả những súc vật.. .v.v ...có liên quan, ảnh hưởng hoặc có thể lợi dụng để thực hiện quyền mưu.
        Thời Chiến Quốc, năm 340 trCN Nguỵ Huệ Vương phát động cuộc chiến đánh nước Hàn. Nước Hàn cầu cứu nước Tề. Nhiều cuộc tranh luận gay gắt diễn ra trong triều đình nước Tề: Có cứu Hàn không ? Cứu cách nào ? Châu Kỵ chủ trương không cứu. Điền Kỵ đòi phaỉ cứu ngay. Tôn Tẫn vừa không tán thành không cứu, cũng không tán thành cứu ngay, mà chủ trương chậm lại rồi sẽ cứu. Ông cho rằng nếu quân đội của hai nước Hàn - Nguỵ đều chưa bị tổn thất nặng, mà nước Tề xuất binh cứu Hàn thì có nghĩa Tề sẽ thay Hàn chịu sự tấn công của Nguỵ, trên thực tế là nghe theo sự chỉ huy của Hàn. Nhưng nếu không cứu, thì sau khi tiêu diệt được Hàn nhất định Nguỵ sẽ tấn công Tề. Do đó chi bằng, “cứ thong thả, bí mật kết thân với Hàn, rồi đợi cả hai cùng suy yếu  mới chọn thời cơ xuất quân”. Tề Uy Vương cho là phải liền bổ nhiệm Điền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư thực hiện kế sách. Tôn Tẫn phân tích tình thế lúc đó, cho rằng quân đội tinh nhuệ của Nguỵ hầu hết đã được điều sang tác chiến ở Hàn, trong nước chỉ còn lại lực lượng yếu để phòng thủ. Bởi thế cứu Hàn nhưng ông không chủ trương xuất quân sang Hàn, mà thẳng sang Nguỵ nhằm thành Đại Lương tấn công, chiếm giữ các đường giao thông quan trọng, tập kích vào hậu phương, quân Nguỵ tất phải rút khỏi Hàn cấp tốc về cứu nguy nước mình. Bằng cách ấy vừa giải vây cho Hàn, vừa đánh bại được quân Nguỵ. Quả đúng như dự đoán của Tôn Tẫn, khi được tin quân Tề vượt biên giới tiến đánh Đại Lương, Nguỵ Huệ Vương vội vã rút đại binh khỏi nước Hàn quay về. Ông ta cử Thái tử Thân làm Thượng tướng quân, Bàng Quyên làm tướng dồn hết binh lực nghênh chiến hòng một trận quyết tử với quân Tề. Tôn Tẫn biết rằng Thái tử Thân không quen dùng binh, còn Bàng Quyên thì kiêu ngạo tự phụ, tính tình nôn nóng muốn đánh nhanh, thắng nhanh. Đó là nhược điểm cần khai thác, ông lập tức cho quân giả vờ rút lui nhử địch tiến sâu vào địa hình đã chọn sẵn, mặt khác tạo tâm lý chủ quan của đối phương bằng mưu “giảm bếp”. Bàng Quyên thấy rằng trên trận địa quân Tề ngày thứ nhất số bếp đủ nấu cho mười vạn người ăn, ngày thứ hai giảm xuống chỉ còn đủ nấu cho năm vạn, ngày thứ ba lại ít hơn nữa và cho rằng quân Tề khiếp sợ bỏ trốn khiến hắn càng chủ quan khinh địch, liền ra lệnh vứt bỏ xe chở nặng và để tất cả bộ binh ở lại, dẫn quân tinh nhuệ trang bị nhẹ ngày đêm vượt đường đuổi theo truy kích quân Tề. Tôn Tẫn tính toán hành trình của quân Nguỵ, biết rằng tối hôm đó chúng sẽ tới Mã Lăng. Địa thế ở đây hiểm trở, cây rừng rậm rạp, lối đi chật hẹp, ông bố trí một vạn binh sĩ giỏi bắn cung nỏ mai phục sẵn. Tôn Tẫn còn cho khắc lên những thân cây lớn dòng chữ: “Bàng Quyên chết ở đây”. Quả nhiên đêm ấy quân của Bàng Quyên tới Mã Lăng. Chờ chúng lọt vào đúng ổ phục kích. Bàng Quyên sai lính đốt đuốc soi cho rõ hàng chữ Tôn Tẫn “tuyên án” mình, gầm lên giận giữ. Đúng lúc ấy hàng vạn mũi tên của quân Tề bắn tới. Quân Nguỵ đại loạn liều chết bỏ chạy. Bàng Quyên tự biết “trí cùng, binh bại” không thể thắng nổi Tôn Tẫn liền rút gươm tự sát.
      Hoặc trận đánh nổi tiếng dùng “trâu lửa” xuất kỳ chiến thắng của Điền Đan được các nhà binh lược mọi thời đại hết sức ca tụng, coi là mẫu mực của quyền mưu và trí sáng tạo. Điền Đan làm Tướng quốc nước Tề thời Chiến Quốc. Năm 284 trCN nước Yên tấn công đánh nước Tề. Thế giặc như thác lũ khiến quân Tề vô cùng nguy khốn. Hầu hết các thành quận bị quân Yên chiếm, đại quân tinh nhuệ của Tề bị tổn thất nặng nề chỉ còn một bộ phận tàn binh do Điền Đan chỉ huy chạy được tới Tức Mặc cố thủ. Tức Mặc có tường thành kiên cố, lương thảo dự trữ đầy đủ, tuy vậy so với địch tương quan lực lượng quá chênh lệch. Điền Đan hiểu rằng chỉ có thể dùng mưu lược mới không bị tiêu diệt. Một mặt ông kêu gọi quân dân đoàn kết, khích lệ ý chiến chiến đấu, dùng kế phản gián khoét sâu mâu thuẫn trong triều đình nước Yên khiến nhà vua nghi ngờ rồi phế truất Nhạc Nghi, một lão tướng lỗi lạc thay thế bằng Kỵ Kiếp một kẻ bất tài thống lĩnh quân đội. Kỵ Kiếp vốn kiêu ngạo, chủ quan cho rằng quân Tề không còn sức chiến đấu nên cắm trại vây thành, buông lỏng kỷ luật, lơ là mất cảnh giác, say sưa chè chén đợi Điền Đan kéo cờ trắng đầu hàng. Điền đan cho rằng thời cơ phản công đã chín. Ông trưng tập mấy ngàn con trâu, trên lưng buộc vải cùng với chất dễ cháy, hai sừng cột chặt binh khí nhọn, sắc, đuôi trâu quấn giẻ đã tẩm ướt dầu mỡ. Đồng thời tuyển chọn năm ngàn binh sĩ khoẻ mạnh, tinh nhuệ, dũng cảm. Một đêm trời đã khuya. Theo hiệu lệnh thống nhất. Lửa đốt lên. Hàng ngàn con trâu bỗng trở thành những cây đuốc lao ra khỏi thành tạo thế trận “hoả ngưu” điên cuồng từ mọi phía xông vào doanh trại quân địch. Bám sát theo “đàn trâu lửa” ấy là những binh sĩ thiện chiến gươm giáo sáng loà tả xung hữu đột. Quân Yên không hề phòng bị kinh hoàng náo loạn, chết như rạ, mất hết tinh thần và khả năng chống cự.  Cuộc giao chiến diễn ra rất nhanh và toàn bộ quân Yên bị tiêu diệt. Chủ soái Kỵ Kiếp cũng bị quân của Điền Đan giết chết.
     Hai trận chiến trên thực chất là những cuộc đối đầu về  trường thể quyền mưu  giữa Bàng Quyên và Tôn Tẫn, giữa Điền Đan và Kỵ Kiếp. Kết quả Bàng Quyên và Kỵ Kiếp thảm bại do thấp thua về đẳng cấp  trường thể quyền mưu  so với Tôn Tẫn và Điền Đan..
   -   Bản thể quyền mưu:  Là đẳng cấp, năng lực tư duy và hành động của chủ thể và khách thể quyền mưu trong cuộc đấu tranh giành chiến thắng.
   Nhân loại đã xuất hiện những mưu lược gia lỗi lạc và mỗi người có những đặc điểm riêng về bản thể quyền mưu . Khương Tử Nha (đời Chu Văn Vương) lấy duy vật luận và biện chứng pháp làm cơ sở tư duy, lấy lòng dân và yếu tố con người làm nền tảng quyền mưu “nhân bất hiền, bất tài, bất hoà thì không thể lo việc lớn”. Tào Quệ (đời Lê Trang Công) đặt chữ “Tín” với dân là hàng đầu. Giữ nước hay dựng nước thoát ly dân đều thất bại. Rất coi trọng sĩ khí. Lâm trận bên nào dũng cảm sẽ thắng. Không phiêu lưu, mạo hiểm. Coi “nhẫn” là sức mạnh, nôn nóng xử lý theo cảm tính sẽ thất bại. Đặc biệt Tôn Tử, bản thể quyền mưu  được đúc kết trên cơ sở thống nhất giữa tính quy luật khách quan và tính năng động chủ quan thể hiện rất cô đọng trong mười sáu kế binh pháp nổi tiếng: dấu ý đồ thật đưa ý đồ giả để lừa đối phương; Nhằm chỗ yếu của địch mà đánh; Mượn tay người khác diệt đối thủ của mình; Dùng tĩnh chống động, gần chống xa; Chờ địch mệt mỏi mới đánh; Biết chớp thời cơ giành thắng lợi; Dương đông kích tây để nghi binh; Lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù để làm chúng suy yếu; Nhử địch để “điệu hổ ly sơn”; Biết mình biết người trăm trận không thua; Bất bại để tất thắng; Đánh bằng tâm trước khi đánh bằng quân; Đánh vào lòng trước khi đánh vào thành; Viễn giao cận công; Rung cây doạ khỉ; Mỹ nhân kế; Khổ nhục kế; Gián điệp kế...Hoặc Tôn Tẫn, hậu duệ của Tôn Tử, mưu lược gia lừng danh thời Chiến Quốc. Cơ sở trong tư tưởng quyền mưu của ông trong “Tôn Tử binh pháp” cũng dựa trên sự thống nhất của tính quy luật khách quan với tính năng động sáng tạo chủ quan của con người. Ông đặc biệt nhấn mạnh “Quý thế”, “Tri đạo” và “Dụng pháp”. “Quý thế” là phải nghiên cứu tình thế chiến tranh lấy đó làm cơ sở quyết định quyền mưu. Phải coi trọng vai trò con người, coi trọng nhân tố chính trị và tinh thần, phải trù bị đầy đủ vật chất, phải có lý do chính đáng để được dân chúng ủng hộ. “Tri đạo” là phải hiểu biết quy luật vận động của chiến tranh.Quy luật chiến tranh cũng như quy luật tự nhiên. Ở đời phàm sự vật gì có thể nhận thức được không thứ nào không chế phục được. Nhận thức và nắm vững quy luật vận động của chiến tranh thì có thể chủ động biến khó thành dễ, biến hung thành cát, biến bại thành thắng. “Dụng pháp” là phải nắm vững phương pháp chiến tranh. Ông cho rằng sự biến hoá tình hình chiến cuộc là vô cùng vô tận và cách đánh thích hợp với mọi tình huống cũng vô cùng vô tận. Đòi hỏi phải luôn chủ động sáng tạo mới giành thắng lợi, thụ động sẽ thất bại...vân ..vân ...Những tổng kết ấy luôn vô giá cho mọi thời đại, cho những ai quan tâm tới bản thể quyền mưu .
      Trong bốn yếu tố đó, bản thể quyền mưu quan trọng hơn cả. Song quyết định thắng bại nhiều khi lại phụ thuộc ở chủ thể quyền mưu. Chiến tranh Ngô - Việt thời Xuân Thu là một điển hình. Đó là cuộc đối đầu giữa Việt vương Câu Tiễn có Phạm Lãi mưu thần và Ngô vương Phù Sai do Ngũ Viên phò tá. Năm 497 trCN Câu Tiễn chủ trương xuất quân đánh Ngô. Phạm Lãi can ngăn, cho rằng thời cơ chưa chín. Nhưng Câu Tiễn không nghe. Kết cục đại bại trong trận Phù Tiêu. Quân Việt bị dồn vào thế tuyệt vọng. Câu Tiễn hối hận đã không nghe Phạm Lãi và hỏi ông: “Bây giờ phải làm sao đây ?”. Phạm Lãi đáp: “Chỉ một cách là cầu hoà”. Câu Tiễn cử Văn Chủng sang Ngô thương thuyết. Mưu thần Ngũ Viên kiên quyết chủ trương tiêu diệt nước Việt, nhưng Phù Sai không nghe, chấp nhận cầu hoà buộc nước Việt phải cống nạp rất nặng và bắt Việt vương Câu Tiễn cùng Phạm Lãi phải sang sống như nô lệ ở nước Ngô làm con tin. Phạm Lãi khuyên Câu Tiễn “nhẫn” chịu “khổ nhục” để tính “kế” lâu dài. Ba năm sau Phù Sai cho rằng Câu Tiễn và Phạm Lãi đã hoàn toàn thối chí nên thả về nước. Câu Tiễn nghe Phạm Lãi, một mặt vẫn cống nạp đầy đủ, nhún nhường giả vờ thần phục Ngô vương, song bí mật chấn hưng đất nước, củng cố quân đội. Đồng thời dùng nhiều cách khoét sâu mâu thuẫn nội bộ triều Ngô làm Ngô suy yếu và bằng chính sách ngoại giao với các nước khác cô lập nước Ngô. Mưu thần Ngũ Viên thấy rõ mối đe dọa này liền lập kế hoạch tấn công nước Việt. Câu Tiễn muốn xuất binh nghênh chiến, nhưng Phạm Lãi can ngăn bởi thực lực Việt so với Ngô còn yếu không thể chống chọi được ông kiến nghị sai sứ cầu hoà. Câu Tiễn nghe theo. Ngô vương Phù Sai vốn coi thường nước Việt, mặt khác rất muốn tập trung binh lực đánh Trung Nguyên nên chấp nhận, mặc dầu Ngũ Viên  tìm mọi cách vạch trần mưu đồ của nước Việt khuyên Phù Sai phải “diệt ngay nước Việt mới trừ được mối hoạ trong tâm trong bụng”. Nhưng Phù Sai vẫn không nghe. Nước Việt lại có thêm thời gian để củng cố tăng cường binh lực. Năm 482 trCN Phù Sai dẫn đại binh tinh nhuệ đi Hoàng Trì chỉ để lại Thái tử Hữu còn trẻ và các binh lính già yếu ở lại giữ Cô Tô. Quân Ngô xuất phát không lâu, Câu Tiễn định khởi binh đánh Ngô, nhưng Phạm Lãi khuyên: đợi Phù Sai tới Hoàng Trì cách xa nước Ngô mới tổ chức tấn công. Câu Tiễn nghe theo. Chỉ mười mấy ngày quân Việt đã chiếm Cô Tô bắt sống Thái tử Hữu. Trước tình thế ấy buộc Ngô vương Phù Sai phải cầu hoà. Phạm Lãi thấy rằng quân chủ lực của Ngô còn rất mạnh chưa bị tổn thất nên kiến nghị với Việt vương Câu Tiễn cho hoà.  Cả hai cùng tận dụng thời gian tăng cường lực lượng.  Năm 478 trCN nước Ngô lâm cảnh hạn hán rất nặng, kho tàng trống rỗng, dân tình đói khổ, Phạm Lãi thấy thời cơ đến đề xuất tấn công. Câu Tiễn đồng ý. Quân Ngô đại bại. Quân Việt chiến thắng, tiến thẳng chiếm Cô Tô. Phù Sai lại xin cầu hoà. Câu Tiễn lưỡng lự. Phạm Lãi kiên quyết không hoà. Câu Tiễn nghe theo, xuất binh phản công. Phù Sai tuyệt vọng tự sát. Nước Ngô hoàn toàn thất bại.
      Mấu chốt cuộc chiến tranh Ngô - Việt là tư tưởng chiến lược của hai mưu thần Phạm Lãi và Ngũ Viên. Bản thể quyền mưu  hai người này đều cân sức cân tài khó phân hơn kém. Song sự thắng bại lại phụ thuộc ở đẳng cấp quyền mưu của hai chủ thể quyền mưu là Việt vương Câu Tiễn và Ngô vương Phù Sai. Họ giống nhau là đều không thuộc loại hùng tài đại lược. Nhưng khác nhau ở thái độ đối với mưu thần. Câu Tiễn khiêm tốn biết nghe Phạm Lãi nên thắng. Phù Sai do kiêu ngạo, tự phụ bỏ ngoài tai mọi can gián của Ngũ Viên mà chuốc thảm bại.
      Mới biết người đứng đầu với tư cách chủ thể quyền mưu  có vai trò quyết định thế nào.
3.   Phương tiện thực hiện quyền mưu: Ngôn ngữ và hành vi.
4. Phương thức thực hiện quyền mưu:
- Dùng ngôn ngữ.
- Dùng hành vi.
- Kết hợp cả ngôn ngữ và hành vi.
   Năm 1812, Hoàng đế Napoleon kéo 60 vạn quân tràn vào nước Nga thế mạnh như vũ bão, trong khi quân Nga dưới sự chỉ huy của thống soái Cutudop chỉ có 21 vạn binh sĩ.  Từ thủ đô Xanh Petecbua, Nga hoàng Alexsandre đệ nhất lệnh cho Cutudop phải bảo toàn quân đội và giữ bằng được Matxkova. Đối đầu với kẻ thù mạnh hơn hẳn mình lúc này sẽ mất quân đội. Quân đội mất thì Matxkova cũng mất. “Không cho địch thắng để đợi thời cơ thắng địch”. Mất Matxkova nhưng không mất nước Nga.Cutudop đã vận dụng “Binh pháp Tôn Tử” “ Tướng tại ngoại quân mệnh hữu sở bất thụ” (Tướng ngoài mặt trận có thể bất tuân lệnh vua). Ông chỉ tổ chức trận đánh lớn tại Borodino (7-9-1812) gây tổn thất nặng nề cho đối phương rồi bí mật đưa đại quân rút lui để bảo toàn lực lượng. Đồng thời sơ tán hết dân, bỏ ngỏ và đốt cháy thành Matxkova. Ngày 15-9-1812 Napoleon chiếm thành phố không người, không lương thực, thực phẩm, không chất đốt, không lửa, không nước ... cũng không biết quân chủ lực của Nga ở đâu để tấn công. Mùa đông ập đến, tuyết phủ dầy khắp nơi. Giá lạnh khủng khiếp. Quân sĩ đói rét phải ăn cả thịt ngựa chiến. Dịch bệnh lan tràn. Napoleon biết đã mắc mưu Cutudop liền vội vã tổ chức tháo chạy. Đến tháng 12 – 1812 hầu hết đại binh của Napoleon bị tiêu diệt. Vị Hoàng đế lùng lẫy danh tiếng ấy buộc phải tuyên bố thất bại. Mộng bá vương làm chủ thế giới của ông ta tan tành mây khói.
      Đây là cuộc đấu về quyền mưu của hai danh tướng lỗi lạc thế giới. Chủ thể quyền mưu là Napoleon và khách thể quyền mưu là Cutudop. Kết quả Napoleon đại bại. Vì sao ? Vì :
      Mục đích quyền mưu của Napoleon là phi nghĩa.
      Mục đích quyền mưu của Cutudop là chính nghĩa.
      Cả hai cùng triệt để sử dụng phương tiện và phương thức để thực hiện quyền mưu: ngôn ngữ, hành vi và kết hợp cả ngôn ngữ và hành vi. Napoleon khích lệ quân sĩ xông lên bằng những khẩu hiệu huênh hoang. Nhưng vì bản chất  cuộc chiến tranh xâm lược do ông ta phát động là phi nghĩa nên ngôn từ có hùng hồn đến đâu cũng không thuyết phục được khối óc, trái tim binh lính. Bởi thế chủ yếu ông ta phải dùng mệnh lệnh và kỷ luật quân sự. Lý tưởng chiến đấu không có thì dù tổ chức có chặt chẽ đến đâu cũng chẳng thể tạo ra sức mạnh. Cho nên quân số gấp ba lần đối phương, được trang bị đầy đủ mà vẫn bị thất bại.
      Quân Nga do Cutudop chỉ huy thì khác. Tướng sĩ đoàn kết gắn bó trên cơ sở lý tưởng cao đẹp, chiến đấu vì chính nghĩa, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc. Lòng yêu nước của cả dân tộc được phát động làm hậu thuẫn tạo thành sức mạnh phi thường. Cho nên quân số chỉ bằng một phần ba, trang bị thô sơ mà vẫn chiến thắng.
      Đó là Cutudop đã chiến thắng Napoleon bằng mục đích quyền mưu và tài tình kết hợp cả phương tiện và phương thức thực hiện quyền mưu.
     Cả hai đối thủ cùng triệt để tận dụng những yếu tố thuận lợi của trường thể quyền mưu nhằm thực hiện mục đích của mình. Napoleon dựa vào sức mạnh quân sự áp đảo đối phương tiến nhanh, đánh nhanh quyết giành thế chủ động chiến trường hòng đè bẹp quân Nga trong thời gian ngắn. Nhưng ông ta đã phạm sai lầm lớn là đánh giá thấp đối phương, đặc biệt Cutudop, một thiên tài quân sự, dày dạn kinh nghiệm đã từng nổi tiếng qua nhiều trận thắng lừng lẫy như công phá pháo đài Izmail, chiến dịch lớn ở Matsin, Slobozia ... Napoleon cũng không đánh giá hết lòng yêu nước nồng nàn, sức mạnh vĩ đại của nhân dân Nga và sự thần thông biến hoá khôn lường của chiến tranh du kích do người Nga thực hiện. Đặc biệt ông ta càng không lường tới yếu tố bất lợi về thời tiết khắc nghiệt ở Nga.
      Cutudop khác. Ông đánh giá đúng sức mạnh quân sự của đối phương hơn hẳn mình nên khôn khéo tránh không đối đầu. Sau trận Borodino mang ý nghĩa chiến thuật ông cho đại binh bí mật rút lui nhằm bảo toàn lực lượng thực hiện “bất bại đợi thời cơ giành tất thắng” (Tôn Tử). Ông kêu gọi lòng yêu nước chống xâm lược của toàn dân tộc. Ông phát động chiến tranh nhân dân bắt kẻ địch phải bị động đánh theo cách đánh của ông. Ông tận dụng thời tiết khắc nghiệt mùa đông thực hiện “vườn không, nhà trống” nhử địch vào Matxkova đã bỏ hoang dồn chúng vào thế hoàn toàn khó khăn, tuyệt vọng buộc Napoleon phải tháo chạy.
      Đó là Cutudop đã thắng Napoleon về  trường thể quyền mưu  và bản thể quyền mưu .
      Chiến trang  Nga – Pháp năm 1812 Cutudop thắng Napoleon bởi đẳng cấp quyền mưu ông hơn hẳn đối phương.
 
 5.   Hình thức quyền mưu.
     Gồm: mẹo, mưu, thủ đoạn và kết hợp các hình thức ấy.
 
     Mẹo:  là khả năng ứng xử, đối phó kịp thời nhằm đạt mục đích tốt nhất và nhanh nhất.
      Thời Chiến Quốc, Ngũ Tử Tư bị vua nước Sở truy sát. Cáo trạng và hình ông dán khắp nơi. Khi chạy đến biên giới nước Ngô ông bị bắt. Viên quan coi cửa ải đích thân áp giải Ngũ Tử Tư về triều. Để thoát thân, Ngũ Tử Tư liền nghĩ ra một mẹo. Ông hỏi: “Ngươi có biết vì sao nhà vua truy sát ta không ?”. “Thông cáo viết ông âm mưu làm phản”.Ngũ Tử Tư lắc đầu: “Không phải. Vì nhà vua muốn đoạt viên ngọc quý gia truyền của ta. Nhưng rất tiếc viên ngọc đó ta đã đánh mất trên đường chạy trốn. Nếu ngươi bắt ta nộp nhà vua, ta sẽ tâu, trước khi vào thành ngươi cướp ngọc quý của ta nuốt vào bụng. Chắc chắn nhà vua sẽ cho người mổ bụng ngươi ngay để lấy ngọc. Chi bằng ...”. Sợ toát mồ hôi, tên quan tháo gông cho Ngũ Tử Tư, tự đánh thâm tím mặt mũi rồi hối thúc ông chạy sang nước Ngô.
      Cũng thời Chiến Quốc, Tô Tần mưu lược gia nổi tiếng, tác giả “Kế hợp tung” chủ trương liên minh sáu nước chống Tần, có nhiều công lớn được vua Tề rất tin cậy trọng dụng. Cũng chính vì thế mà ông bị bọn gian thần ghen ghét đố kỵ và có kẻ đã hãm hại ông. Vua Tề giận lắm rất muốn tìm ra thủ phạm. Biết không thể qua khỏi, trước lúc lâm chung Tô Tần nói với vua Tề: “Đại vương hãy ra thông cáo kể mấy tội của hạ thần và kêu gọi ai có công giết Tô Tần đến nhận ban thưởng”. Quả nhiên bằng mẹo ấy thủ phạm háo hức tới “nhận thưởng” liền bị bắt và bị xử tử.
      Quách Tử Nghi có nhiều công lớn, đặc biệt dẹp “loạn An Sử” được vua Đường Đại Tông phong Tể tướng, rất quý trọng và gả công chúa Thăng Bình cho Quách Noãn là con trai Tử Nghi.
      Nhân mừng thọ cha, Quách Noãn cùng vợ về làm lễ. Nhưng Thăng Bình cậy là công chúa không chịu quỳ lạy bố chồng khiến Quách Noãn vô cùng phẫn nộ. Họ cãi nhau. Quách Noãn nói rằng bất hiếu với bố chồng Thăng Bình chỉ là đồ bỏ đi. Rằng sở dĩ Hoàng đế có được thiên hạ là nhờ Quách Tử Nghi. Rằng ... Do nóng nảy không kiềm chế được Quách Noãn can tội phạm thượng, theo luật phải chu di tam tộc. Công chúa chạy về Hoàng cung tâu với vua. Quách Tử Nghi sợ toát mồ hôi. Làm sao cứu được ba họ đây ? Trong đầu bỗng nảy ra một mẹo. Lập tức ông sai trói Quách Noãn rồi đích thân áp giải con vào cung, khấu đầu xin nhà vua trừng trị tội không biết dạy con. Cảm động trước tấm lòng chân thành của vị lão tướng. Hơn nữa Quách Noãn dù sao cũng là phò mã. Vả lại, tính kiêu ngạo của công chúa Thăng Bình ai cũng biết, nhà vua đỡ Tử Nghi dạy, cười nói: “Vợ chồng trẻ chúng nó cãi nhau là chuyện thường. Mình già rồi chấp làm gì. Lời bọn trẻ ở khuê phòng ta coi như không biết là được”. Quách Tử Nghi rạp mình cám ơn Hoàng đế.
     Dưới triều Minh, đời vua Thế Tông, Hải Thuỵ là vị quan nổi tiếng cương trực. Hồ Tôn Hiến là Tổng đốc có chỗ dựa là Tể tướng Nghiêm Trung nên rất lộng hành ức hiếp lương dân. Con trai hắn là Hồ Công Tử cậy thế bố vô cùng tàn bạo. Hải Thụy giận lắm. Một hôm Hồ Công Tử đi qua Thuận An. Trạm dịch không bày tiệc khoản đãi. Hồ Công Tử bèn sai tay chân treo ngược quan trạm lên đánh đòn rất đau, rồi có gì quý giá vơ vét hết.  Được tin Hải Thuỵ liền nghĩ ra một mẹo. Ông sai lính bắt trói Hồ Công Tử và bọn lâu la đánh cho thê thảm, rồi viết bức thư gửi cùng người và tang vật tới phủ Hồ Tôn Hiến. Thư viết rằng có một tên côn đồ dám mạo danh Hồ Công Tử cùng lũ tay sai vô cớ đánh quan trạm, cướp của, nay giải đến để quý phủ trị tội. Hồ Tôn Hiến biết Hải Thuỵ cố ý xỉ nhục cha con hắn, uất lắm mà không làm gì được đành nuốt bồ hòn làm ngọt.
      Yến Tử, Tể tướng nước Tề phụng mệnh đi sứ nước Sở. Người nước Sở thấy ông nhỏ bé, tướng mạo quê mùa định làm nhục ông và cũng là làm nhục nước Tề. Bên cạnh cửa lớn đóng chặt họ xây thêm một cửa nhỏ cử mấy viên quan đứng đấy nghênh tiếp. Yến Tử không đi qua, nói: “Chỉ có người đi sứ nước chó mới qua cửa dành cho chó chui lọt này. Còn ta đi sứ nước Sở chứ đâu phải nước chó”. Biết không thể đối phó, họ đành phải mở cổng lớn mời ông qua. Khi vào gặp Sở Vương, Sở Vương nói: “Nước Tề không chọn được ai khác đi sứ hay sao ?”. Ý muốn nói sao lại chọn người còi cọc như Yến Tử . Yến Tử dõng dạc đáp: “Nước Tề chúng tôi cử sứ giả đi là có phân biệt. Người đức tài đi đến nước có đức tài. Người không đức tài đi đến nước không có đức tài. Thần tài hèn đức mọn nên đi sứ nước Sở”. Sở Vương và các đại thần đều im lặng cúi đầu.
      Nhờ mẹo mà Ngũ Tử Tư thoát chết, Tô Tần trả thù được kẻ đã ám hại mình, Quách Tử Nghi cứu được ba họ khỏi chu di, Hải Thụy dạy cho cha con ồ Tôn Hiến bài học nhớ đời và Yến Tử không để vua quan nước Sở hạ nhục được mình, mà trái lại.
     
      Mưu: là phương thức quyền mưu  tổng hợp ở trình độ cao, mục đích lớn, phạm vi rộng, ảnh hưởng sâu và không nhất thiết đạt kết quả ngay. Có hai loại chủ yếu: mưu lược và mưu kế.
      Mưu lược: nhằm thực hiện mục đích chiến lược, lâu dài.
      Mưu kế:  là kèm cả kế sách hoặc kế hoạch thực hiện.
      Thời Chiến Quốc, Tư Mã Hy làm Tướng quốc nước Trung Sơn, túc trí đa mưu rất được vua tin dùng. Nhưng người thiếp mà vua sủng ái lại không ưa ông, luôn rỉ tai vua mọi lời gièm pha. Để lâu bất lợi. Làm sao giữ được mình, bình yên xã tắc, mà không gieo thù gây oán cho ai ? Sau nhiều đêm suy nghĩ Tư Mã Hy đã có  được mưu kế.  Nhân một buổi tiệc vui, ông mời nhiều quan khách tới dự, trong đó có sứ giả nước Triệu. Triệu là quốc gia lớn, lâu nay Trung Sơn phải triều cống. Sứ giả nước Triệu say mê ngắm các vũ nữ múa không ngớt khen ngợi. Ty Mã Hy thì thầm “khoe”: Trung Sơn có một mỹ nhân tên là Âm Giản hiện là tỳ thiếp của vua, sắc đẹp nghiêng thành, ca múa tuyệt hảo... Trúng “kế” của Tư Mã Hy, sứ giả về tâu với vua Triệu. Vốn háo sắc, vua Triệu liền cho sứ giả đưa văn thư sang yêu cầu vua Trung Sơn cho “mượn” nàng Âm Giản. Vua Trung Sơn tiến thoái lưỡng nan. Để Âm Giản đi thì mất, thì tiếc, mà không cho vua Triệu “mượn” thì khó tránh khỏi nạn binh đao. Họp triều thần không ai nghĩ ra được đối sách gì khiến nhà vua vô cùng hoang mang lo lắng. Theo mưu đã tính, Tư Mã Hy xin gặp riêng vua hiến kế: khuyên Bệ hạ phong ngay Âm Giản làm Vuơng hậu. Âm Giản làm Vương hậu rồi thì phép bang giao khiến Triệu vương không thể “mượn”, Bệ hạ sẽ từ chối được. Nhà vua cho là phải, liền lấy cớ tránh xung đột với nước Triệu giữ yên trăm họ để vận động đương kim Hoàng hậu hãy vì giang sơn xã tắc mà từ ngôi, nhường cho Âm Giản và triều thần cũng vì lẽ đó mà một lòng tuân thủ. Ngoài nhà vua và Âm Giản không ai biết đó  là mưu kế của Tư Mã Hy. Bởi thế ông tránh được thù oán, hiềm khích, vua lại càng tin dùng. Còn Âm Giản thì vô cùng ân hận về những lời gièm pha của mình trước đây đối với Tư Mã Hy, hết lòng ngưỡng mộ và biết ơn ông.
     Đời Minh Thành Tổ (triều Minh) có ba quan đại triều trung thần là Dương Vinh, Dương Sĩ Kỳ và Dương Phổ. Dương Vinh trí tuệ hơn người, nhiều mưu kế, giỏi quyết đoán. Cả ba rất được Thái hậu tin. Khi ấy vua còn là ấu chúa do tên hoạn quan Vương Chấn phò tá. Hắn là tên gian thần đầy tham vọng và nhiều thủ đoạn. Đối thủ ngăn cản Vương Chấn và phe cánh của hắn là ba vị quan họ Dương. Bởi thế hắn luôn tìm cách loại bỏ. Một hôm Vương Chấn gặp Dương Sĩ Kỳ ngỏ ý thăm dò: “Công việc triều đình đều dựa vào ba vị tiên sinh. Nay ba vị đều tuổi cao sức yếu, rồi đây không biết sẽ thế nào ?”. Ý bóng gió của Vương Chấn là ba vị hạ đài đi. Dương Sĩ Kỳ vốn bộc trực nói luôn: “Lão thần còn tận tụy đến khi chết”. Vương Chấn cười nhạt. Hắn lại đến gặp Dương Vinh nói đại ý như đã nói với Dương Sĩ Kỳ. Dương Vinh cười đáp: “Sĩ Kỳ đại nhân nói vui vậy thôi, chứ lớp người chúng ta già rồi, không còn mấy sức lực nữa, rất cần rời vũ đài và chọn người phụng sự Hoàng đế”. Vương Chấn gật gù: “Đại nhân nghĩ thế là phải lắm”. Hắn tỏ ra đắc ý. Hôm sau Dương Vinh gặp Dương Sĩ Kỳ và Dương Phổ giải thích rõ ý của mình rằng: “Bè lũ Vương Chấn rất hận “tam Dương” chúng ta. Trước sau chúng cũng bày mưu lật đổ hoặc hãm hại. Còn chúng ta thực sự tuổi đã cao, sức đã yếu không thể kéo dài mãi việc phò tá xã tắc được, trước sau cũng phải giao lại cho lớp trẻ. Lúc này nếu ta không lựa chọn ngay những người tin cậy, khi hết thời cơ, bè lũ Vương Chấn đưa người của chúng vào thì quốc gia đại loạn.Tới lúc đó “tam Dương” chúng ta chỉ còn biết bó tay chịu trói, chờ chết thôi”.  Hai vị Dương Sĩ Kỳ và Dương Phổ đều cho là phải. Họ thống nhất chọn ba quan trung thần còn trẻ là Tào Nại, Miêu Trung và Trần Tuần. Cả ba đều đã trải qua thử thách rèn luyện có thể đương đầu với bọn Vương Chấn. Ba vị cùng dâng sớ lên Thái hậu và được Thái hậu chuẩn y.
      Mưu kế ấy là đòn bất ngờ giáng thẳng vào bè lũ Vương Chấn. Thất bại mà chúng phải chịu.
      Năm 14 tuổi, Khang Hy tỏ ra người có tư chất, trực tiếp điều hành triều chính. Ngao Bái lần lữa không chịu giao đại quyền, thậm chí lên triều hắn mặc Hoàng bào để tỏ rõ uy thế và đối lập với mọi người. Khang Hy nhỏ tuổi nhưng thông minh, chí lớn. Ông lập mưu kế giết Ngao Bái trừ hậu họa. Nhà vua tìm chọn mấy chục thiếu niên vào cung ngày đêm luyện tập võ nghệ và vui chơi. Ngao Bái không để tâm, cho rằng vua còn trẻ con nên thích trẻ con vào cho có bạn mà thôi và càng tỏ ra coi thường Hoàng đế.
     Một hôm Ngao Bái vào cung. Khang Hy cười đùa vui vẻ, rồi hô một tiếng, tất cả những “võ sĩ tý hon” quây lại, đè Ngao Bái xuống, trói chặt. Ngao Bái tưởng Hoàng đế đùa với hắn nên cũng cười vui vẻ không phản ứng gì. Đến khi Hoàng đế cho triệu các đại thần vào công bố tội trạng của Ngao Bái rồi nhốt ngục tử tù bấy giờ hắn mới bừng tỉnh thì đã muộn.
      Lưu Bang khi còn trẻ hàn vi lêu lổng, trên ba mươi tuổi mới làm chức quan nhỏ là Đình trưởng phụ trách dẫn một số phạm nhân tới Thiểm Tây xây mộ Tần Thuỷ Hoàng. Không chịu nổi ngược đãi nhiều người bỏ trốn. Sợ mắc tội chết, Lưu Bang tha cho tù nhân tự do bỏ đi, còn mình cũng sẽ liệu nơi ẩn náu. Mấy người tâm phúc xin theo. Họ uống rượu, ăn thề rồi tìm đường về hướng Đại Hồ. Một người đi trước thăm dò, quay về nói có một con rắn trắng nằm ngang đường, phải đi lối khác thôi. Đang ngà ngà say, Lưu Bang xách kiếm đi. Lát sau về nói đã chặt rắn trắng làm đôi vứt xuống khe núi rồi. Thế là tất cả kéo nhau đi.
      Mấy ngày sau xôn xao tin đồn rằng có một bà lão đến chỗ ấy khóc. Hỏi sao khóc ? Bà lão nói: “Con trai tôi là hậu duệ của Bạch Đế hoá thành rắn trắng nằm ngang đường bị con trai của Rồng Xích Đế chém chết ». Câu chuyện cứ thế được đồn thổi và Lưu Bang bỗng nhiên trở thành « Chân Long Thiên tử » con Rồng, đuợc huyền thoại hoá như « người nhà Trời ». Bởi thế khi ông phất cờ tụ nghĩa trai tráng khắp thiên hạ ùn ùn kéo đến đầu quân. Không ai biết chuyện rắn trắng, chuyện bà lão khóc con có thật, hay đó chỉ là  mưu lược  của Lưu Bang ?
      Ở nước ta năm 1418 Lê Lợi khởi nghĩa chống giặc Minh có mưu lược gia Nguyễn Trãi phò tá. Nguyễn Trái lấy mỡ viết vào lá cây tám chữ : « Lê Lợi vi quân. Nguyễn Trãi vi thần » rải dọc ven suối. Kiến bâu vào ăn mỡ, đục thủng lá cây theo nét chữ. Trời mưa cuốn những lá cây mang dòng chữ « sấm truyền » ấy đi khắp thiên hạ. Dân chúng coi đây là mệnh Trời, trai tráng kéo đến Lam Sơn tụ nghĩa ngày càng đông.
      Nhờ  mưu (cả mưu kế và mưu lược) mà Tư Mã Hy bảo vệ được mình, giữ yên xã tắc, Dương Vinh phá tan ý đồ thâm độc của bè lũ Vương Chấn, Khang Hy diệt được tên đại gian thần Ngao Bái, Lưu Bang, Lê Lợi thâu phục được lòng dân thành công đại nghiệp.
     
      Thủ đoạn : là phương thức sảo trá, bịp bợm, nham hiểm, bất chấp đạo lý nhằm thực hiện mục đích ích kỷ, phi nghĩa, thường thích ứng với những kẻ tà tâm, bản chất gian hùng đạo tặc.
      Thời Chiến Quốc nước Ngụy có Phạm Thư, thông minh, chí lớn, đọc nhiều, hiểu rộng, thiên văn địa lý, binh thư chiến sách, kinh dịch, bát quái không gì không nghiên cứu, nhưng nhà nghèo phải làm môn khách (giúp việc) cho quan đại phu Tu Giả. Có lần Tu Giả sang Tề cho Phạm Thư theo. Nhờ phong độ và tài hùng biện Phạm Thư rất được Tề Vương quý trọng, tặng nhiều vật quý và muốn giữ Phạm Thư lại bổ nhiệm làm quan to, nhưng Phạm Thư từ chối. Về nước, Tu Giả ghen ghét đố kỵ đã dùng thủ đoạn xấu xa bẩm báo ngay với Ngụy Vương vu cáo Phạm Thư nhận hối lộ và thông đồng với ngoại bang mưu làm phản. Nguỵ Vương tức giận sai đánh Phạm Thư gãy xương sừơn, bẻ hết răng, bó vào chiếu ném xuống thùng phân.
      Thời Tam Quốc, Tào Tháo một lần đem quân đi đánh trận, thời gian phải kéo dài trong khi lương thực đã cạn. Nếu chuyện này binh sĩ biết sẽ hoang mang bỏ trốn. Vương Cấu đảm trách hậu cần rất lo lắng tấu trình Tào Tháo. Tháo bảo Vương Cấu dùng đấu nhỏ thay đấu lớn để phân chia. Cấu nói : « Nếu binh sĩ biết được họ sẽ giết tôi ».Tào Tháo đáp:« Cứ theo lệnh thi hành.Trách nhiệm ta gánh ». Cấu làm theo. Quả nhiên việc vỡ lở, quân sĩ căm phẫn kéo đến dinh Tào Tháo. Tháo cho triệu Vương Cấu tới :  « Ngươi một lòng phò ta, ta biết. Nay để yên lòng quân sĩ ta mượn của ngươi một thứ. ». « Thừa tướng muốn mượn thứ gì của tôi ạ ? ». « Thủ cấp của người ». Rồi không để Cấu nói thêm, Tháo gọi lính chặt đầu Vương Cấu bêu trên cọc, dưới dán tờ thông cáo : « Vương Cấu cố tình làm đấu nhỏ ăn bớt lương thực. Theo quân pháp xử chém ». Quân sĩ tiêu tan nỗi bất bình, nhiều người còn hối hận vì đã hiểu lầm Thừa tướng.
      Bằng thủ đoạn đê tiện Tu Giả và Tào Tháo đã sát hại cả những người tâm phúc vì quyền lợi ích kỷ của mình.
      Phân tích để thấy từng khái niệm là thế, nhưng thực tế cuộc sống đòi hỏi người ta phải biết vận dụng, kết hợp một cách đúng đắn, sáng tạo các loại hình thức quyền mưu để đạt hiệu quả cao nhất.
     
      Khoa học về  quyền lực  và  quyền mưu rất quan trọng cần được nghiên cứu nghiêm túc, đầy đủ và sâu sắc, nhất là những ai có liên quan hoặc đang nắm trong tay đầy quyền lực. Có  quyền lực phải có  quyền mưu, nếu không chẳng khác « Kỵ sĩ mù cưỡi ngựa mù » không những làm hỏng sự nghiệp của mình mà còn phá tan đại nghiệp quốc gia mà nhà  đại mưu lược Tôn Tẫn đã cảnh báo từ mấy nghìn năm trước.
                                                             Hà Nội, nhà số 10 Ngõ 73 Giang Văn Minh
                                                                              ngày 30 tháng 11 năm 2007