Trang chủ » Truyện

CHUYỆN LẠ VỀ MAO TÔN ÚC (1)

Bão Vũ – Trần Nhương
Thứ tư ngày 3 tháng 11 năm 2010 5:43 AM
 
Mấy lời đầu truyện:
Duyên do để có thiên truyện hoạt kê này là kiếm chút “cám bã” nuôi con web Trannhuong.com. Nhà văn Bão Vũ dưới Phòng bịa tạc ra nhân vật Mao Tôn Úc làm nghề phê bình văn học bên xứ Trung Hoa, do nói thẳng mà bị đánh đuổi. Ông chạy sang Việt Nam ta và cũng gặp không ít khó khăn. Thiên truyện này có 16 chương nhưng Bão Vũ tiên sinh chỉ viết được 3 chương vì ông bận sáng tác tác phẩm đồ sộ để đời. Không nỡ để bạn đọc hẫng hut, Trần Nhương tôi đành nhắm mắt nhắm mũi viết tiếp từ chương 4 đến chương 16. Do văn tài của tôi kém xa văn tài Bão Vũ nên khi chắp lại chắc chắn có chuyện “đầu voi đuôi chuột”. Thôi thì bạn đọc liếc qua cho vui một thiên truyện không biết là thể loại gì, nửa cổ nửa kim, cốt lấy vui làm chính…
  Truyện này đã cho lên Trannhuong.com một phần khi còn phiên bản cũ. Vừa qua tôi đã viết thêm để hoàn chỉnh 16 chương. Trannhuong.com sẽ lần lượt giới thiều từng chương. Xin mời các bạn đón đọc...
      
Một
 

Mao Tôn Úc bị đòn hàng thịt
Hành phương nam Trưởng Thượng ra tay

Mao Tôn Cương đời nhà Thanh có tài viết những bài luận bình phê phán các pho trường thiên tiểu thuyết. Những lời bình chí lý của tiên sinh về các bộ sách Tam Quốc Chí, Thủy Hử, Tây Sương Ký....  còn lưu mãi hậu thế. Mao có người chít nội là Mao Tôn Úc, tự là Phủ Sơn (1). Tôn Úc thủa nhỏ lêu lổng, không có chí lập thân, lớn lên vô nghề nghiệp, được vợ nuôi ăn, chỉ nằm dài đọc sách tìm những điều hay dở trong sách ra suy xét làm thú vui. Có người mách, sao không học theo tổ phụ Mao Tôn Cương đi bình phẩm những điều người ta viết trong sách mà kiếm chút danh. Úc nghe theo, từ đấy thấy ai viết gì cũng đọc rồi tìm đến bình cho người ta nghe. Lúc tán thưởng văn người, Tôn Úc được đãi rượu thịt, có khi được thưởng bạc. Nhưng khi không giữ được mồm miệng, chê văn của người ta, thì chẳng được gì, lại bị xỉ vả. Có kẻ còn thù hận chửi Úc là “đồ cẩu trệ, chỉ tài hóng hít sủa càn”. Một lần, ở chợ Trường An có gã hàng thịt biết chữ, cũng ham văn chương, viết ra bài phú “Đồ trư tuyệt thú” tán dương nghề mổ lợn dán trước cửa hàng để quảng cáo. Mao Tôn Úc đi qua hàng thịt, đọc bài phú ấy, không nhịn được, buông lời chê bai. Ngay giữa chợ, gã hàng thịt văn nhược nhưng vũ phu đã đả cho Tôn Úc một trận thập tử nhất sinh, lại viết ba chữ  “Ngu như trư” lên trán. Người trong chợ chẳng ai can, chỉ đứng nhìn như xem trò vui. Có một đám văn nhân ngồi uống rượu trong quán gần đấy còn vỗ tay tán thưởng, nói: “Phẩm bình văn chương à? Đánh cho chết đi!” (2)
   Tôn Úc nằm liệt dưỡng thương đến ba tháng, khi đứng dậy được thì vợ con đã bỏ đi biệt. Úc buồn bực nghĩ, đến vợ con cũng chẳng dung dưỡng nổi ta. Trung Nguyên không phải là đất trọng nhân tài, trời Nam là nơi Văn Khúc phát quang, đến đấy ắt được trọng dụng. Nghĩ đoạn, gạt nước mắt bỏ lại gia sản hơn trăm thước đất thành nội Tràng An giá trị đến mấy trăm lượng vàng mà đi về phương Nam.
Tôn Úc đầu đội nón lá chân dận hài cỏ, ngày đi đêm nghỉ, đói bứt quả dại, khát vục nước suối. Đến địa phận Đại Việt, có đêm nằm giữa rừng nghỉ giấc, thấy con hổ lớn đến bên nhìn một lúc rồi bỏ đi, không hiểu là chê Úc gầy gò ít thịt hay hổ dữ xứ này cũng biết trọng người tài. Hơn ba tuần trăng vượt qua thiên sơn vạn thủy Tôn Úc đến thành Thăng Long kinh đô nước Đại Việt. Tôn Úc nón lá tả tơi, giày cỏ rách nát, bụng đói chân run, trong bọc chỉ có chút bạc lẻ phòng đau ốm, mà chốn thị thành lại không có quả dại, nước suối. Úc lang thang khắp Thăng Long, tìm đến các chùa xin cơm chay, nhưng chẳng chùa nào phát thực phẩm miễn phí, lại còn chỉ vào những cái hòm gỗ sơn đỏ chói có khe nhỏ, nhắc “Xin thí chủ phát công đức”. Đành ra chợ kéo nón che mặt giả làm hành khất xin bố thí sống qua ngày.
 Một hôm, sắp lả đi, Tôn Úc thấy một quán cơm đề chữ Việt “Trần Nhương chấm com”. Tôn Úc không thạo tiếng Việt, lại thêm đói quá mắt mờ nên đọc thành “Trần Dương chấm cơm”, nghĩ quán này bán món tái dê ăn với cơm. Úc suy luận Trần Dương là thịt dê “chần” nước sôi, tức là tái dê. Tuy cũng nghi hoặc về khả năng Việt ngữ của mình song Tôn Úc vẫn đánh liều bước vào mong kiếm chút xương thừa bì thải đỡ lòng. Chủ quán Nhương Tác Nghiệp, vốn là văn nhân có tài thi hoạ, mở quán này để mua vui cho khách văn chương trong thiên hạ. Nhương nhìn vị khách bụi bặm rách rưới tiều tụy như kẻ khất thực nhưng cốt cách lại không ra dáng thường nhân, bèn hỏi danh tính. Tôn Úc xưng tên. Nhương cả mừng kêu lên :
- Thì ra tiên sinh chính là hậu duệ của Mao Tôn Cương đại nhân. Thật vinh hạnh cho Nhương này lắm.
   Đoạn sai tửu bảo sắp bàn ăn khoản đãi cơm rượu, rồi giữ Tôn Úc lại quán tôn làm thượng khách, ngày nào cũng sáng “Phương Việt canh” ( phở Vuông), trưa “Lã Vọng hợp ngư” ( chả cá Lã Vọng), chiều “Nhất điểu tả pí lù” ( Lẩu một chim). Mao Tôn Úc cảm kích lắm, nghĩ bụng, đúng là đất này trọng hiền tài. Hàng ngày khách đến quán của Nhương Tác Nghiệp là các văn nhân tài tử chốn kinh kỳ, thường trổ tài văn chương thơ phú. Mao Tôn Úc như rồng gặp mây, lại muốn trả nghĩa vị chủ quán đã có ơn với mình, nên thường chăm chú lắng nghe văn thơ của khách rồi thốt ra những lời bình phẩm rất du dương khiến chủ khách đều đẹp lòng. Quán của Nhương càng ngày càng đông vui.
    Ngày nọ, có một vị mặc áo tía nghênh ngang bước vào quán. Người này tuổi trạc thất tuần, râu tóc bạc phơ nhưng tráng kiện, ra vẻ người quyền uy thế lực. Khi vị áo tía bước vào, lũ văn nhân trong quán đang tranh luận thơ phú ầm ỹ chợt im bặt lục tục đứng dậy cúi rạp, đồng thanh xướng to:
- Cung chúc Trưởng Thượng Văn Hào khang an.
Chỉ có Mao Tôn Úc vẫn ngồi uống bình rượu của mình. Lão áo tía đưa mắt nhìn Tôn Úc hỏi:
- Kẻ lạ mặt kia là ai ?
Nhương chủ quán toan trả lời thì một văn nhân gày còm đã nhanh nhẩu lên tiếng:
- Thưa Trưởng Thượng Văn Hào, vị này là Mao Tôn Úc từ phương Bắc đến.
Lão áo tía cười nhạt, giễu cợt:
- Mao Tôn Úc, dân phương Bắc à. Ra thế. Chắc nghĩ mình là tử tôn của Mao Diên Thọ, Thừa tướng đại gian thần đời Hán, nên không coi người trên ra gì.
Mao Tôn Úc đứng phắt dậy, chộp lấy hũ tương ớt trên bàn. Nhương Tác Nghiệp vội lấy cuốn sổ ghi nợ che hũ tương ớt trong tay Úc, rồi cười nói:
- Trưởng lão lượng thứ. Mao tiên sinh là hậu duệ của Mao Tôn Cương đời Thanh, mới đến Thăng Long lần đầu, chưa kịp biết ai với ai ở đây.
Lão áo tía cười lớn, vẫn giọng châm biếm :
- Vậy là chứ không phải Mao Diên Thọ. Nhưng có đúng Mao Tôn Cương hay là Mao Toại thời Xuân Thu Chiến Quốc chỉ giỏi môn độn thổ ? – Lão áo tía chưa hết phật ý, cố chọc tức Tôn Úc.
   Úc cả giận, nhưng tay cầm hũ tương ớt đã bị Nhương chủ quán giữ chặt, nên tay kia chộp lấy lọ dấm tỏi trêm bàn. Nhương chủ quán lại phải ghìm tay.
Úc, cố cười cợt với lão áo tía:
- Thưa Trưởng Thượng Văn Hào, có chứng chỉ của Trung Hoa Văn Đàn viết rõ Tôn Úc là dòng dõi bình luận gia văn chương Mao Tôn Cương của Thanh triều.
- Thế thì hãy nghe ta đọc bài thơ, rồi bình phẩm thử xem tài cán có xứng với dòng dõi Mao Tôn Cương không?
Nhương Tác Nghiệp đỡ lời:
- Xin trưởng lão cứ xuất thơ. Thơ của Trưởng Thượng phải có lời bình của hậu duệ Mao Tôn Cương mới xứng.
Lão áo tía cao giọng:
- Vậy hãy nghe đây:
Chi hồ giả dã giả hồ hồ
Chi giả dã hồ dã giả hồ
Chi dã giả hồ hồ giả giả
Chi hồ giả dã dã giả hồ

Đọc xong, lão áo tía đứng giữa quán vểnh râu giương mắt ngạo mạn nhìn Tôn Úc. Các văn nhân trong quán đều thất kinh để rơi chén bát chí chát vì bài thơ kỳ dị của lão áo tía và lo cho Tôn Úc.
Nguyên bốn chữ  Chi hồ giả dã vốn là những hư tự dùng trong văn ngôn của những kẻ muốn tỏ ra mình có học hơn người. Những hư tự ấy mà kết thành bài thơ thì thậm vô nghĩa và kỳ quái vô cùng.
Nhương Tác Nghiệp tái mặt ghé tai Tôn Úc:
- Xin tôn huynh cố bảo trọng. Chớ làm lão tức giận.
Tôn Úc nghĩ bụng: Nhương Tác Nghiệp cứu ta qua cơn bĩ cực, lại hậu đãi bấy lâu, ơn chưa trả được, nay nếu làm lão tục phu kia phật ý sẽ gây họa cho Nhương, chẳng hóa ra là lấy oán báo ơn sao. Song le cũng không thể không cho lão áo tía biết lẽ đời “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”. Nghĩ thế, bèn đứng lên vái lão áo tía rất cung kính rồi nói:
- Thất lễ cùng Trưởng Thượng Văn Hào. Bài thơ người vừa phát xuất thuộc hàng kim cổ kỳ thi. Bốn câu đều là thần cú cả. Xin lĩnh ý ngài mà mạo muội đưa ra mấy lời bình vụng dại: Cái thần tình của bài thất ngôn tứ tuyệt này là cả 28 chữ chỉ gồm bốn chữ Chi hồ giả dã xoay vần mà thành với âm vận hào tráng đầy dương khí. Bốn câu đều có chữ Chi đứng đầu, nghĩa là tứ chi, khiến thế của bài thơ cực kỳ vững chãi. Chỉ hiềm một điều nhỏ là toàn bài chỉ có bốn chữ Chi đứng đầu mỗi câu gọi là chính Chi. Nếu có thêm một tiểu Chi nữa đặt ở khoảng giữa hai chữ Chi của hai câu dưới gọi là phụ Chi thì thật là toàn bích.
Lão áo tía ngẫm nghĩ, vuốt râu gật gù, hỏi Tôn Úc:
- Nhà ngươi bình cũng hữu lý. Nhưng như thế là bài thơ của lão phu thiếu phụ Chi. Vậy sao nhất thiết phải có phụ Chi?
- Thưa, mọi suy luận có liên quan đến toán số đều theo Thiên luật là Sinh-Lão- Bệnh- Tử. Bài thơ tứ tuyệt đã có tứ Chi, nếu thêm câu thứ năm để có một chính Chi nữa thì phá luật, là điều bất khả. Giữ nguyên tứ Chi thì sa vào cửa Tử, nên phải có phụ Chi để chuyển sang cửa Sinh. Xếp theo tượng hình thì như thế này. - Mao Tôn Úc nhúng ngón tay chỏ vào bát rượu viết lên bàn những chữ Chi theo lối Triện thư, rất cân đối, rồi giảng giải:
Nguyên văn bài thơ của lão Trưởng Thượng chỉ có tứ Chi, như sau:
CHI – CHI
CHI – CHI
Tứ Chi, vậy là sa vào cửa Tử. Nếu thêm một Chi phụ nữa giữa hai hạ Chi, sẽ thành ra:
CHI – CHI
CHI – chi – CHI
Thế là ngũ Chi, bài thơ đã chuyển sang cửa Sinh. Thiếu như vậy tức là không bằng bài thơ cũng như thế mà có phụ Chi. Tuy nhiên đó chỉ là sự suy luận cao khoát thái quá. Tổ phụ của tại hạ khuyên không nên lạm dụng thuật này khi bình thơ phú e làm mất cái khí tự nhiên của thi ca. Nhưng nay gặp bậc kỳ tài mới dám nói ra. Thiết nghĩ, chỉ nguyên văn bài thơ của lão Trưởng Thượng cũng đã là không tiền khoáng hậu, thiên hạ vô địch, vượt xa cả Lý Bạch, Đỗ Phủ thời Thịnh Đường rồi.
Lão áo tía đắc ý cười ha hả:
- Quả không hổ là dòng dõi Mao Tôn Cương.
Rồi lấy ra một nắm bạc quát bảo Nhương Tác Nghiệp đem ba vò rượu thượng hạng đãi cả đám văn nhân có mặt trong quán. Đoạn lại nghênh ngang bước ra cửa, vừa đi vừa cười lớn:
- Thiếu phụ Chi như vậy cũng là không tiền khoáng hậu thiên hạ vô địch, vượt xa cả Lý Bạch, Đỗ Phủ rồi. Ha-ha-ha.
Đám văn nhân trong quán đổ xô vào ba vò rượu ngon uống thỏa thuê, không ngớt ngợi khen tài bình luận của Tôn Úc. Riêng Nhương Tác Nghiệp mặt tái như chàm đổ, kéo vội Tôn Úc vào phòng trong đưa cho một gói bạc rồi mở cửa sau, bảo:
- Vạ lớn sắp đến rồi. Mao tiên sinh hãy mau đào thoát khỏi nơi này, cứ theo hướng Tây mà đi, sẽ ra khỏi kinh thành, rồi tìm về cố quốc càng sớm càng hay. Tại hạ cũng khó giữ nổi thân nên cực chẳng đã mới phải mời tiên sinh ra đi. - Lại cởi tấm áo lông cừu đang mặc khoác cho Tôn Úc, nói:
- Tấm ngự hàn này đệ mới mua ở Mông Cổ. Mao huynh về phương Bắc, dọc đường hàn phong chướng khí, có áo này, như luôn có đệ ở bên.
Mao Tôn Úc khóc rống lên, tự tát vào mặt mình mấy cái cực mạnh đến chảy máu miệng. Rồi quỳ sụp xuống vái Nhương Tác Nghiệp :
- Ta đã cố kiềm chế mà vẫn làm hại tới ân công. Hãy tha tội cho ta. Xin nhận ba lễ này, hẹn kiếp sau báo đáp.
   Rồi đứng lên gạt nước mắt rảo bước đi về phía Tây, chẳng mấy lúc đã khuất dạng sau gò phế chất cao như núi của kinh thành.
Thật là:

Thâm sơn đối dã thú vô sự
Đô hội phùng văn nhân tác thù

( Tạm dịch : Rừng sâu gặp dã thú thì yên ổn. Còn ở nơi đô thị đông đúc gặp khách văn chương mà thành thù địch )
Muốn biết vì sao  chuyện lại nghiêm trọng như vậy, xin xem phần sau sẽ rõ.
_______________________

(1) Xin đừng suy ra theo tiếng Tây Dương mà hiểu Tôn Úc là “tôn liên doanh
Việt – Úc” ( “tôn Austrnam” ), hoặc Tôn Phủ Sơn là “tôn phun sơn, mạ màu” loại vật liệu lợp dùng trong xây dựng hiện nay.
(2) Câu này theo nhà thơ Đức Johann Wolfgang Von Goethe: “Hãy đánh chết nó đi, thằng khốn,  nó là nhà phê bình văn học”