Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

EM TÔI LIỆT SĨ TÔ VĂN HÙNG

Vũ Ngọc Tiến ghi theo lời kể của bà Tô Hà
Thứ ba ngày 28 tháng 7 năm 2009 8:38 PM
Vũ Ngọc Tiến ghi theo lời kể của bà Tô Hà
Chiến tranh đã lùi xa mấy chục năm, nhưng nó mãi vẫn là niềm tự hào của một thế hệ cầm súng ra đi cứu nước, cũng còn là nỗi đau ám ảnh bao gia đình vì chưa tìm được mộ người thân đã hy sinh trong cuộc chiến, trong đó có em tôi- liệt sĩ Tô Văn Hùng. Em đã sống, chiến đấu và hy sinh như một người anh hùng ở chiến trường biên giới Tây Nam, được truy tặng Huân chương chiến công hạng ba, song đến năm 1985, gia đình mới nhận được giấy báo tử. Giờ đây, ngồi kể lại chuyến đi tìm mộ em trai (2008), tận thẳm sâu tôi không khỏi bồi hồi nhớ lại cả một thời gian khổ, nhưng rất hào hùng của Thủ đô ta và của gia đình tôi những năm chống Pháp rồi chống Mỹ. Nó liên quan rất nhiều đến lá thư tình nguyện nhập ngũ viết bằng máu của Hùng (7/1978) và cái chết lẫm liệt của em khi mới tròn 6 tháng tuổi quân…
Gia đình tôi sống trong căn hộ nhỏ ở phố Yên Thái, gần chợ Hàng Da, quận Hoàn Kiếm- Hà Nội, nhưng cha mẹ tôi quê gốc ở Tiền Hải- Thái Bình. Các cụ đi dân công hỏa tuyến trong các chiến dịch đánh Pháp, gặp và thương nhau, nên vợ nên chồng, sinh ra tôi năm 1948, và em trai tôi là Tô Văn Cường năm 1951. Sau đó, mẹ tôi bị thương vì một mảnh bom, cha tiếp tục đi dân công phục vụ chiến dịch Biên Giới rồi Điện Biên Phủ nên thất lạc nhau. Năm 1954, giải phóng Thủ đô cha về Hà Nội, tìm gặp được mẹ tôi đang buôn bán nhỏ ở chợ Hàng Da, sinh thêm 3 đứa con nữa. Thế là trong gia đình có 5 chị em, tôi là chị cả, liệt sĩ Hùng là đứa em thứ tư. 10 tuổi, tôi đã phải giúp mẹ tần tảo đi chợ, nấu ăn, chăm sóc bé Hùng từ khi còn ẵm ngửa. Tình cảm của tôi với Hùng ngoài tình chị em còn có cái gì thiêng liêng hơn, giống như tình mẫu tử.
Năm 1964, giặc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, cả Thủ đô ta hừng hực khí thế thanh niên viết đơn tình nguyện ra chiến trường đánh Mỹ. Tôi là phận gái, lại có 4 em nhỏ, nhưng vẫn cùng bạn bè ở trường Thanh Quan, Tô Hiệu giấu cha mẹ viết đơn tình nguyện và đến 7/1965 thì trốn nhà tham gia lực lượng thanh niên xung phong Thủ đô vào chiến đấu ở đất lửa Quảng Bình lúc chưa đầy 17 tuổi. Mấy năm ở Quảng Bình, tôi nhận được thư nhà nhiều nhất là của 2 đứa em trai Cường và Hùng. Các em còn đang học tiểu học mà đã biết hứa hẹn, lớn lên sẽ noi gương chị Hà đi chiến trường để không hổ thẹn là hậu duệ của “Lý triều Thái phó đại vương Tô Hiến Thành”. Có lẽ vì thế nên hai em tôi sau này đủ tuổi đều viết đơn tình nguyện nhập ngũ bằng máu chăng?...
Thật không may, năm 1967, mẹ tôi đột ngột lâm bệnh qua đời, cha đang làm công nhân xí nghiệp ô tô 1/5 vừa đi sơ tán ở Đông Anh, vừa vất vả thăm nuôi 4 em tôi còn nhỏ dại,  đi sơ tán theo trường ở tận Thanh Oai – Hà Tây. Vì thế, cấp trên cho tôi xuất ngũ, gửi đi đào tạo tại lớp biên tập - xuất bản, trường Tuyên giáo TW, khóa 1969 - 1973. Ra trường, tôi về công tác ở NXB Thanh Niên, chồng tôi công tác ở TW Đoàn. Tôi được sống gần cha, chăm sóc các em, nhất là Hùng, đứa em tôi bế bồng, bón cháo, hát ru từ khi còn ẵm ngửa.  Tôi đã qua vài đơn vị công tác, UBND quận Hoàn Kiếm (1974), trường Đảng quận Hoàn Kiếm (1978 cho đến lúc nghỉ hưu). Các con tôi, 3 đứa đều trưởng thành, gia đình đầm ấm, nhưng lòng tôi đêm ngày ngóng vọng về phía trời Nam, không biết thịt xương Hùng vùi ở nơi đâu?!...
Có lẽ số Hùng phải thế, bởi lá thư ngày nào em viết gửi vào chiến trường Quảng Bình cho tôi đã vận vào đời em cái nghiệp phải nối gót chị Hà và anh Cường của nó mà cầm súng vào lúc đất nước đã thống nhất, sạch bóng quân xâm lược Mỹ, nhưng súng lại nổ ở biên giới. Thanh niên Thủ đô năm đó lại một lần nữa nô nức lên đường nhập ngũ. Em Hùng của tôi có đầy đủ tiêu chuẩn để không phải nhập ngũ vì đã có tôi là chị cả từng ra chiến trường và anh trai trên nó là Cường nhập ngũ đi B từ năm 1971, đến năm 1978 vẫn không có tin tức gì, không rõ còn sống hay đã hy sinh? Thế nhưng Hùng vẫn giấu gia đình viết đơn tình nguyện nhập ngũ bằng máu tại quận Hai Bà Trưng nơi em làm việc, chứ không theo hộ khẩu ở quận Hoàn Kiếm. Ngày lãnh đạo và nhân dân Thủ đô Hà Nội làm lễ tiễn các em lên đường chiến đấu, tổ chức tại quảng trường Nhà hát lớn, chính Tô Văn Hùng là người được vinh dự thay mặt mấy nghìn thanh niên Thủ đô lên đọc lời thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Ai ngờ chỉ nhập ngũ vẻn vẹn 6 tháng tuổi quân, em đã thành người thiên cổ!...
Sau thời gian 2 tháng luyện tập ở Phủ Lý, Hùng được biên chế vào đơn vị pháo binh của quân đoàn 3. Em tham gia vài trận đánh ác liệt với tàn quân Pôl Pốt ở Kông Phông Chàm thì bị thương nặng, phải về nằm điều trị ở bệnh viện dã chiến Núi Bà Đen. Cũng thời gian này, quân đoàn 3 của em được lệnh bí mật chuyển ra Bắc làm nhiệm vụ “đặc biệt”. Đầu năm 1979, sau thảm bại ở Nông Pênh ngày 7/1/1979, lợi dụng tình hình biên giới phía bắc căng thẳng, bọn tàn quân Pôl Pốt bí mật vơ vét tàn lực tập trung quân gần biên giới Tây Ninh, chờ thời cơ đánh thẳng vào tận Sài Gòn. Đại quân ta bấy giờ ở Kông Pông Thom chưa về kịp, quân đoàn 3 đã bí mật chuyển ra Bắc, lực lượng ta ở biên giới Tây Ninh bấy giờ rất mỏng, nên thương binh ở bệnh viện Núi Bà Đen, trừ những người quá nặng, tất cả đều tình nguyện ra chiến đấu ngoài mặt trận. Đêm ngày 17/2/1979, mấy ngàn tàn quân Pôl Pốt có cố vấn nước ngoài chỉ huy, ào ạt tràn vào đánh lén Tây Ninh. Quân dân ta ở đây chủ yếu là bộ đội địa phương, du kích và thương binh ở bệnh viện Núi Bà Đen đã kiên cường đánh trả, đẩy lùi kẻ địch, chờ viện binh đến bao vây tiêu diệt gọn, nhưng tổn thất chiến tranh thật là khủng khiếp. Hùng và hàng ngàn chiến sĩ ta đã vĩnh viễn nằm xuống trong đêm 17/2/1979 đẫm máu ấy. Vì nhiều lý do quân sự và chính trị, việc hy sinh của Hùng và đồng đội phải được giữ kín, chỉ đến năm 1985 gia đình mới có giấy báo tử, song hài cốt em quy tập ở đâu vẫn còn tạm thời nằm trong bí mật. Tất cả những điều trên tôi chỉ được những người có trách nhiệm ở Quân khu 7 và tỉnh Tây Ninh kể lại hoặc giải thích, sau khi tìm được mộ em Hùng vào năm 2008.
Từ năm 1985, gia đình khổ công tìm kiếm, nhưng đều vô vọng! Đau đớn nhất là cha tôi, từ ngày báo tử em Hùng ông cứ sống vật vờ như cái xác không hồn. Sau nhiều năm chờ đợi, ông ôm hận ra đi với lời trăn trối: “Các con cố tìm cho được hài cốt thằng Hùng đưa nó về Bắc nằm gần cha.” Thương em, nhớ lời cha dặn, tôi dồn hết sức người sức của, tổ chức nhiều chuyến tìm mộ em Hùng. Đồng đội tôi ở  đơn vị C812 N43 tại Quảng Bình năm xưa, rồi bạn bè cùng học phổ thông hay trường Tuyên giáo TW… ai còn sống và làm việc ở các tỉnh phía Nam cũng hết lòng giúp đỡ tìm kiếm mà tin tức cứ mỗi ngày thêm mờ mịt. Bế tắc, tôi tìm đến sự trợ giúp của các nhà ngoại cảm như bà N, ông H, bà Th, bà H…cũng đều không có kết quả. Tình cờ tôi biết đến Trung tâm quản lý dữ liệu liệt sĩ (TT MARIN), một tổ chức thiện nguyện do giới trẻ lập ra để hỗ trợ các gia đình tìm mộ liệt sĩ. MARIN có hẳn 1 trang Web “Nhắn tìm đồng đội” đầy ắp thông tin, nổi tiếng từ năm 2004, do một nhóm các cháu sinh viên  ngành CNTT, trường ĐH Quốc gia Hà Nội sáng lập, hoạt động rất có hiệu quả. (Trong khi Bộ LĐTB&XH tiêu tốn vài tỷ đồng làm trang Web “Đi tìm đồng đội” mà mấy năm rồi vẫn chỉ là trang… Web chết!) Nguồn thông tin của các cháu rất đa dạng, phong phú nhờ công tác xã hội hóa, đặc biệt là nhờ sự sưu tầm của các cháu thanh niên, học sinh ở các tỉnh phía Nam. Các cháu còn huy động được nhiều cựu chiến binh, phóng viên chiến trường tham gia giải mã các phiên hiệu đơn vị của liệt sĩ ghi trong giấy báo tử, một vấn đề rất nan giải khi tìm mộ liệt sĩ… Gặp được cháu Ngô Thị Thúy Hằng, tôi giật mình vì cháu còn kém con trai đầu của tôi dăm tuổi mà đã làm được công việc lớn lao, đền ơn đáp nghĩa liệt sĩ. Hằng đã phân tích cặn kẽ nội dung giấy báo tử, chỉ dẫn cho tôi tập trung tìm kiếm ở Ban chính sách Quân khu 7. Đó là bước ngoặt quan trọng giúp tôi tiếp cận nguồn tài liệu gốc bao nhiêu năm không hề hay biết. Đồng đội, bạn bè của tôi lại một lần nữa nhanh chóng sôi nổi vào cuộc và họ đã thành công. Tôi vô cùng biết ơn anh Vũ Ngọc Xiêm ở  VP báo Cựu chiến binh tại Tp Hồ Chí Minh đã dày công tra cứu cả kho tư liệu đồ sộ của quân khu 7 để tìm ra tờ danh sách có ghi Tô Văn Hùng hy sinh ở mặt trận Tây Ninh ngày 17/2/1979. Tôi càng xúc động và biết ơn nhà văn Nguyễn Đức Thiện ở Đài truyền hình Tây Ninh đã nhiều ngày dãi nắng dầm mưa, đi khắp các nghĩa trang trong tỉnh, tìm ra mộ của Hùng ở nghĩa trang liệt sĩ Trà Võ, xã Thạch Đức, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh. Và biết bao người khác tôi đội ơn đã vất vả vì em tôi trong những ngày sau đó. Hùng ơi!

…Ngày xưa chị hát ru em
Bây giờ chị khóc, thỉnh em về cùng.
Em qua chinh chiến nghìn trùng
Bao năm hồn cốt hóa cùng nước non…
 
Thế là sau 29 năm hy sinh ở đất rừng Tây Ninh, một ngày thu đẹp nắng năm 2008, tôi đã tìm được mộ em: LS Tô Văn Hùng; đưa em về với quê hương, yên nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ Ngọc Hồi, Tp Hà Nội.

Hà Nội 22/7/2009
VNT
Nguồn báo TP online 26/7/2009, bản đầy đủ do tác giả gửi trannhuong.com

Box 1 
Website “Nhắn tìm đồng đội” (
www.nhantimdongdoi.org) do bạn Nguyễn Hữu Tuấn (Hiệp sĩ CNTT) và 7 bạn sinh viên khác ở trường ĐHQG Hà Nội khởi xướng, thiết kế, đã hoạt động từ năm 2004, đến nay đã có gần 1 triệu lượt người truy cập. Website có giao diện thân thiện, tin tức cập nhật thường xuyên, có kho dữ liệu liệt sĩ phong phú từ nhiều nguồn xã hội hóa, nhiều mục chia sẻ thông tin, hướng dẫn thân nhân tìm mộ liệt sĩ, giải đáp thắc mắc và nhiều bài viết xúc động với sự cộng tác của các nhà văn, nhà báo.
MARIN đang quản lý hàng chục nghìn thông tin về liệt sĩ, vẫn tiếp tục thu thập bổ sung thường nhật, đã giúp được nhiều gia đình tìm được mộ.
Địa chỉ: TT MARIN, P401, nhà A1, Khu chung cư ở ngõ 102, phố Nguyễn Huy Tưởng, Q Thanh Xuân- Hà Nội. ĐT: (04) 38585984- Mob: 0918232405.