Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

NHỮNG BÀI VIẾT CỦA HOÀI THANH NGÀY ẤY

Lại Nguyên Ân sưu tầm
Thứ bẩy ngày 18 tháng 7 năm 2009 5:41 PM

 TNc: Tôi nhận được ba bài viết này từ nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân. Chúng ta vừa kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hoài Thanh và trân trọng những đóng góp của ông cho văn học Việt. Bên cạnh đó Hoài Thanh là một con người với những nông nổi, nghĩ ngợi một thời. Chúng tôi đưa loạt bài này lên cũng để chúng ta yêu quý ông hơn với tất cả ấm lạnh đời người. Bài thứ ba là trích hồi ký của Hoàng Cầm vào những năm 1956 thế kỉ trước...

Hoài Thanh

VẠCH TÍNH CHẤT PHẢN ĐỘNG CỦA BÀI
NHẤT ĐỊNH THẮNG CỦA TRẦN DẦN
 
Sau tám mươi năm bị địch dày xéo và sau mười lăm năm bị chiến tranh tàn phá, miền Bắc của chúng ta còn trải qua nhiều khó khăn. Giặc ngoại xâm tuy bắt buộc phải rút lui nhưng bọn tay sai chúng gài lại và giai cấp địa chủ vẫn không ngừng phá hoại chúng ta. Nhưng nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, Đảng và Chính phủ, trong hơn một năm nay, đã nỗ lực phi thường để hàn gắn mọi vết thương. Chỉ trong hơn một năm, chúng ta đã thu được những thành tích cực kỳ to lớn. Không phải kể lại đây những kết quả chúng ta đã đạt được trong mọi ngành hoạt động; có một điều chúng ta có thể nói dứt khoát là chưa bao giờ, trên đất nước Việt Nam, cuộc sống, mặc dầu còn nhiều thiếu thốn, lại có thể tươi vui như bây giờ. Không những người công nhân đang trở thành chủ nhân xí nghiệp, người nông dân đang trở thành chủ nhân nông thôn, người lao động trí óc mà chân trời phục vụ trở nên rộng mông mênh cảm thấy sâu sắc như thế, mà tất cả mọi tầng lớp nhân dân đều thấy như thế. Có những chuyện mới đây một năm tưởng như còn là những chuyện mơ ước xa xôi, ví dụ như chuyện xây dựng xong những đường xe lửa, mà trong khoảnh khắc trên đất nước Việt Nam đã trở thành sự thật. Lại có những chuyện rất nhỏ mà ý nghĩa rất lớn. Tết chưa đến mà ở Hà Nội những tranh tết cổ truyền đã không thể mua ở đâu cho ra. Tranh hết và hoa cũng hết. Vì không chỉ người giàu mà cả người nghèo Tết năm nay cũng muốn sắm một ít hoa. Đó là chuyện mấy ngàn năm nay chưa từng có.
Sách báo Tết của ta năm nay đều phản ảnh cái không khí phấn khởi và tưng bừng ấy.
Cho nên chúng ta càng ngạc nhiên khi thấy cũng trong một quyển sách ra vào dịp Tết này, tập GIAI PHẨM 1956 của nhà xuất bản Minh Đức - Thời Đại, một bài hoàn toàn lạc điệu. Đó là một bài của Trần Dần viết theo thể thơ nhan đề Nhất định thắng.
Miền Bắc trong bài Trần Dần hoàn toàn không đúng với miền Bắc thực của chúng ta. Mới xem lướt qua, có người tưởng lầm là Trần Dần chỉ nói đến những khó khăn. Nhưng xem lại thì thấy rõ Trần Dần đã xuyên tạc và vu khống miền Bắc. Trần Dần đã tạo ra một miền Bắc đen tối và ngột ngạt. Bốn lần Trần Dần day đi day lại cái hình ảnh mưa rơi trên cờ đỏ, cố gây một ấn tượng âm u đối với thực tế tươi sáng của chúng ta. Phải chăng vì một thứ phiền muộn vẩn vơ nào đây mà Trần Dần nhìn cảnh vui lại hóa ra cảnh buồn? Nhưng nếu chỉ có thế thì cũng chỉ là một sự sai lầm bình thường như nhiều sai lầm khác trong các tác phẩm văn nghệ của ta. Đối với những sai lầm ấy, người đọc chỉ phê bình và thường là phê bình một cách thân ái.
Trái lại bài của Trần Dần đã làm cho hầu hết mọi người đọc đều phẫn nộ. Có đồng chí bộ đội đọc đến giận quá, xé ngay. Hội Văn nghệ Việt Nam có tổ chức một buổi họp để nhận định về bài này. Không khí buổi họp rất sôi nổi, anh chị em văn nghệ miền Bắc, miền Nam, vùng tự do cũ và vùng mới giải phóng, ai cũng muốn được phát biểu ý kiến để nói lên sự phẫn nộ của mình.
Vì sao vậy? Vì mọi người đã nhận thấy đây không chỉ là sai lầm mà chính là một lời vu khống.
Hãy lấy một vấn đề di cư. Ai cũng biết không có bàn tay độc ác của Mỹ Diệm thì không làm gì có vấn đề di cư. Tiếng nói thật của quần chúng đi Nam là: chúng tôi bị dụ dỗ, chúng tôi bị cưỡng ép, chúng nó dọa đốt nhà, chúng nó dọa giết người, không đi không được. Nhưng Trần Dần làm lời quần chúng đã gán cho quần chúng những là: di cư vì thiếu tiền, thiếu gạo, thiếu cha, thiếu chúa, thiếu gió, thiếu mây. Đúng là luận điệu của địch.
Trần Dần cứ day đi day lại: Ai dẫn họ đi? Ai? mà không thấy trả lời, không vạch mặt chỉ tên quân địch.
Ngoài việc vu cáo ta về vấn đề di cư chính do chúng gây ra, bọn Mỹ Diệm còn thường xuyên xuyên tạc về các vấn đề thất nghiệp, đói kém, hàng hóa ế ẩm do chúng để lại. Đối với những sự việc ấy Chính phủ và nhân dân ta giải quyết kịp thời với những kết quả to lớn hiển nhiên. Nhưng bài Nhất định thắng đã phủ nhận những thắng lợi đó của ta, đã hoàn toàn rập theo những luận điệu vu khống xảo trá của quân địch. Trần Dần nói đến những vấn đề trên với một giọng oán thán, hằn học. Hằn học ai? Mọi người đều biết khó khăn ta còn gặp phải chính là bọn đế quốc xâm lược, bọn Mỹ Diệm, gây ra. Nhưng Trần Dần đã phản lại nhận định đó. Trần Dần viết:
Ta biết đâu bên Mỹ miếc tít mù…
Chúng còn đang bày kế hại đời ta?
hay:
Em biết đâu Mỹ miếc Ngô nghê gì?
để đỡ đòn cho địch trước sức căm phẫn của nhân dân ta, để bảo rằng việc nhân dân ta buộc tội Mỹ Diệm là vô căn cứ.
Một mặt khác Trần Dần tuyệt nhiên không nói đến cái phấn khởi cái tin tưởng không bờ bến của nhân dân ta.
Địch không sợ gì hơn là lòng tin tưởng, sức phấn khởi đó. Chúng tìm đủ mọi cách để gieo rắc tinh thần tiêu cực, hoang mang. Trần Dần đã làm đúng như điều mong muốn của chúng.
Trần Dần khi không dựng đứng lên:
Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu
Tôi là người vô địch của lòng tin.
Ta có thể tưởng chỉ là câu nói huênh hoang vô nghĩa của một người điên. Nhưng mà không. Trần Dần nói thế để nói tiếp theo đó:
Em ơi thế ra
Người tin tưởng nhất như anh
Vẫn có những phút giây ngờ vực.
Trần Dần ngờ vực như thế nào? Trong cuộc đấu tranh giữa nhân dân ta và Mỹ Diệm, Trần Dần gieo mối ngờ:
Ai có lý? và ai có lực?
Chúng ta biết trong khi nhân dân ta tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nắm chắc chính nghĩa trong tay và hoàn toàn tin tưởng vào lực lượng của mình đã được thử thách trong kháng chiến, không phải không có một số ít người ngại đấu tranh, co mình lại nghĩ lẩn thẩn hết chuyện này đến chuyện nọ. Trần Dần ném ra một câu hỏi vu vơ, không giải quyết, chính là đánh trúng vào tâm lý ấy.
Hơn thế nữa, sau khi đã xuyên tạc dựng nên một miền Bắc với những cảnh ngột ngạt, đen tối như trên, đặt ra câu hỏi Ai có lý? Ai có lực chỉ là để trả lời rằng miền Bắc tốt đẹp và lớn mạnh của chúng ta theo Trần Dần thì không có lý và không có lực.
Cả cái giọng nói của Trần Dần cũng góp phần gây hoang mang. Trần Dần có một lối nói chán chường, buông thõng: những tự do tự diếc, Mỹ miếc Ngô nghê hoặc như nói về tổng tuyển cử mà mọi người đang hy sinh phấn đấu để thực hiện cho bằng được thì Trần Dần buông một câu:
Liệu tổng hay chẳng tổng?
Từ trong giọng nói toát ra một thứ chán chường nặng trĩu. Trần Dần nuôi dưỡng cái phần hoài nghi, phần khiếp nhược, phần dơ dáy trong một số người. Địch không mong gì hơn là gọi dậy các thứ bùn nhơ ấy nó là cơ sở cho chế độ thối tha của chúng cũng như lòng dũng cảm, chí hy sinh, niềm tin tưởng là cơ sở cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng của chúng ta.
***
Sau bao nhiêu đoạn vu khống ta, cuối cùng có đoạn hình như Trần Dần chửi địch như đoạn tả cuộc biểu tình của đồng bào Sài Gòn. Nhưng toàn là những câu chửi bâng quơ tuyệt nhiên không nêu một tội ác cụ thể nào của địch. Trái lại Trần Dần lại còn gọi những người biểu tình phản đối Mỹ Diệm là:
Những mảng thịt
Những đọi máu đào
đang rầm rập kéo nhau đi ngoài phố
gây nên một ấn tượng khủng khiếp, làm cho người đọc tưởng tượng ở miền Nam nhân dân ta cũng chẳng có lực lượng gì.
Cũng có đoạn hình như Trần Dần ca ngợi miền Bắc. Trần Dần vẽ lên một cảnh mít-tin và Trần Dần nói người đói, người no, người lành, người rách, người đang vui, người đang buồn tất cả ra đường hô khẩu hiệu. Rồi máu trời rơi xuống vì
Những tiếng ta hô
có sức đâm trời chảy máy
Cái vĩ đại của miền Bắc là ở sức lao động sáng tạo của hàng triệu người đang xây dựng hòa bình và hạnh phúc ở khắp nơi trên đất nước giầu đẹp của chúng ta. Tuyệt nhiên không nói đến những cảnh ấy mà chỉ nói đến mít-tin và nói theo kiểu Trần Dần nói thì không phải là ca ngợi mà chính là xuyên tạc.
***
Toàn bài của Trần Dần toát ra một sự hằn học sâu sắc đối với chế độ tươi sáng ở miền Bắc, đối với sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, thống nhất của nhân dân ta. Tôi không kết luận về người. Tôi chỉ căn cứ vào bài văn. Tự nó, bài Nhất định thắng trong lời và chữ của nó, chứa đựng những tư tưởng phản động, đứng về phía địch chống lại nhân dân ta, chống lại cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Trong nền văn nghệ chúng ta đầy tin tưởng ở hiện tại và tương lai của chế độ, của dân tộc, bài Nhất định thắng của Trần Dần thật đúng như lời đồng chí Nguyễn Tuân nói, là một thứ mụn lở trên một cơ thể lành mạnh.
Nhưng chúng ta vốn đã biết trong cuộc đấu tranh quyết liệt của chúng ta, những phản ứng như vậy của tư tưởng địch là chuyện tất nhiên. Nó tuyệt đối không thể cưỡng lại sức mạnh của chính nghĩa, của nhân dân đang tiến mau như thác cuốn.
25-2-56
HOÀI THANH
●Nguồn: [báo] Văn nghệ, Hà Nội, s.110 (1.3.1956), tr.2.
--------------------------------------------------------------------------------------------

Hoài Thanh
 

TÔI ĐÃ SAI LẦM NHƯ THẾ NÀO TRONG VIỆC PHÊ BÌNH BÀI NHẤT ĐỊNH THẮNG CỦA ANH TRẦN DẦN
 
Cuộc Cách mạng của chúng ta không thể nào tiến lên được, nếu chúng ta không tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, không nghỉ chống những tư tưởng sai lầm ở chung quanh ta và ở trong tâm trí mỗi chúng ta.
Một bên là những tư tưởng cách mạng của giai cấp vô sản kế thừa những truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc, của nhân loại; một bên là những tư tưởng áp bức bóc lột, sa đọa đồi trụy của xã hội thực dân phong kiến cũ nó đang liên hồi phản công vào chế độ chúng ta, cố gò chúng ta quay trở lại. Những chế độ chính trị khác nhau cần phải chung sống hòa bình với nhau, những giai cấp khác nhau có thể liên minh với nhau. Nhưng trong lĩnh vực tư tưởng không thể có liên minh cũng không thể có chung sống hòa bình giữa vô sản và phi vô sản, giữa cách mạng và chống cách mạng.
Nhưng đấu tranh tư tưởng không thể dùng lối áp bức mệnh lệnh, cũng không thể lấy đa số đàn áp thiểu số. Làm như thế không bao giờ giải quyết được vấn đề tư tưởng.
Đó là điều sai lầm của tôi trong việc phê bình bài Nhất định thắng của anh Trần Dần.
Bài Nhất định thắng theo ý tôi là một bài có những sai lầm nặng. Cái nhìn của anh Trần Dần trong bài này là một cái nhìn trịch thượng mà rất yếu đuối có khi bệnh tật, hoang loạn. Giọng nói của anh trong bài này là một giọng nói có khi nặng trĩu chán chường. Hình ảnh miền Bắc trong bài của anh rất là thảm đạm. Hình ảnh đấu tranh của đồng bào miền Nam cũng rất là thảm đạm. Người cầm bút có trách nhiệm không thể dựng lên những hình ảnh như vậy. Dựng lên để làm gì? Nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giữ hòa bình, giành thống nhất gặp nhiều khó khăn lớn. Nhưng thái độ của anh Trần Dần trong bài Nhất định thắng là thái độ của người dao động. Và vì vậy, ngòi bút của anh không hiện thực. Cũng có những câu, những đoạn anh nói những điều có thể có lợi cho ta. Nhưng ngòi bút của anh sắc sảo và có nghệ thuật khi viết những điều có hại thì lại trở nên nhợt nhạt, vu vơ, công thức trong những câu, những đoạn ấy. Đọc xong, cái phần còn lại trong trí người ta chỉ là cái phần âm u, thảm đạm, còn thì bay đi đâu mất cả. Có người nói: Đó là tại thực tế hay tại anh Trần Dần? Nhưng trong quá trình đấu tranh cách mạng còn có những lúc khó khăn gấp bao nhiêu lần bây giờ, người cách mạng vẫn không thể nhìn theo lối nhìn ấy. Với lối nhìn ấy, anh Trần Dần sẽ gieo rắc buồn nản, hoang mang. Nhiều câu thơ của anh có sức làm tiêu ma chí khí đấu tranh trong khi mọi người còn phải nỗ lực phi thường để vượt những khó khăn do quân thù để lại. Tác giả có thể có ý muốn khác nhưng tác dụng khách quan của bài Nhất định thắng là có hại. Đấu tranh chống lại cái tác hại của bài này là đúng.
Nhưng dầu sao đó cũng chỉ là những sai lầm về tư tưởng. Và tiến hành đấu tranh cũng phải theo đúng phương thức đấu tranh tư tưởng của chúng ta.
Tôi đã không làm như thế. Thường vụ Hội Văn nghệ tổ chức cuộc họp để phê bình bài Nhất định thắng. Kể muốn tập trung vào một bài mà phê bình cũng được. Nhưng ý thức của tôi trong khi tham gia điều khiển cuộc họp ấy là muốn cô lập anh Trần Dần và tranh thủ những người khác có bài trong Giai phẩm. Cái lối cô lập và tranh thủ ấy dựa trên ý định lấy nhiều người đàn áp một người là một điều trái với nguyên tắc đấu tranh tư tưởng.
Hôm ấy lại không có mặt anh Trần Dần, hình như lúc bấy giờ anh còn ở nông thôn, nhưng chúng tôi không hề nghĩ đến việc cần phải tìm anh về và mời anh phát biểu. Cuộc phê bình rõ ràng là không bình đẳng.
Nhất là chúng tôi trong chủ tịch đoàn lại không hề uốn nắn nhiều lời phê bình quá đáng. Nên trước sau hội nghị chỉ phát biểu một chiều.
Tan cuộc họp, tôi rất mừng, tôi nghĩ rằng do cuộc họp này toàn giới văn nghệ sẽ đoàn kết phấn khởi. Tôi liên hệ đến Cải cách ruộng đất, tôi nhớ lại tình hình đoàn kết phấn khởi của nông dân sau mỗi lần đấu tranh với địch. Sự liên hệ này tố cáo, trong tư tưởng, tôi đã lầm lẫn bạn thù. Anh Trần Dần đối với tôi nghiễm nhiên đã là một kẻ thù, không còn nghi ngờ gì nữa.
Vẫn sự lầm lẫn nghiêm trọng ấy trong bài phê bình của tôi đăng trên báo Văn nghệ. Trong bài này tôi đã nói: tính chất phản động của bài Nhất định thắng, bài Nhất định thắng chứa đựng những tư tưởng phản động, v.v… Tôi đã dùng hai chữ phản động không cân nhắc. Nhưng thực ra không phải chỉ là vấn đề dùng chữ. Toàn bài phê bình của tôi đều cùng một tinh thần ấy. Tôi nói tôi không kết luận về người, chẳng qua chỉ có nghĩa là tôi không nói anh Trần Dần là ở trong một tổ chức của địch. Kết luận thế nào được? Có chứng cớ gì đâu mà kết luận? Nhưng trong ý nghĩ của tôi thì đúng là địch rồi, dầu chưa có thể kết luận là ở trong một tổ chức địch. Tôi nhặt từng câu từng chữ để chứng minh rằng tác giả đã cố ý nói xấu chế độ ta, cố ý vu khống miền Bắc. Nay tôi bình tĩnh đọc lại bài Nhất định thắng thì thấy tuy có câu không được rõ nghĩa nhưng không có gì để kết luận như thế. Không có chứng cớ mà kết luận như vậy thực là coi rẻ một cách quá đáng sinh mệnh chính trị của một người. Do đâu mà tôi đã kết luận như vậy?
Phải trở lại hoàn cảnh đầu năm nay. Lúc bấy giờ là lúc mới bước vào cải cách ruộng đất đợt 5, chúng ta bắt đầu đánh vào dinh lũy cuối cùng của đế quốc phong kiến ở miền Bắc. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, địch phá hoại điên cuồng. Nhưng có khi chúng ta đã đánh giá địch quá cao, tưởng chừng như chỗ nào cũng có địch. Riêng trong địa hạt văn nghệ, những tin tức về vụ Hồ Phong bên Trung Quốc cũng vừa truyền sang. Trong trí tôi nẩy ra ý nghĩ: Trung Quốc có Hồ Phong, biết đâu chúng ta lại không có một Hồ Phong. Rồi một số dư luận về những quan hệ gia đình và xã hội của anh Trần Dần trong quá khứ và trong hiện tại tuy không có căn cứ gì nhưng cũng đã ảnh hưởng đến tôi. Hơn nữa cái không khí phẫn nộ chung đối với bài Nhất định thắng và một số bài khác của anh Trần Dần như bài Anh Cò Lấm đăng trên báo Tổ quốc, nhất là việc có người đọc Giải phẩm tức quá xé ngay làm cho tôi càng thêm yên trí.
Sự yên trí ấy làm sai lạc cả nhận xét của tôi. Lúc đầu đọc bài Nhất định thắng tôi chỉ có cảm giác đây là một tâm trạng âm u, điên loạn, không chịu được ánh sáng của chế độ ta, nhưng chẳng mấy chốc tôi đã chuyển sang nghĩ đây là một sự cố tình vu khống.
Làm cái việc phê bình mà mang sẵn thành kiến trong mình, lại dựa dẫm vào ý kiến chung quanh, không thực sự cầu thị, không bình tĩnh suy xét thì thật là nguy hiểm, nhất là khi đứng trong cương vị lãnh đạo thì lại càng nguy hiểm.
Bài phê bình của tôi đăng báo hồi tháng 3, đến tháng 4, Đảng phê bình chúng tôi, tôi bắt đầu thấy sai nhưng vẫn xem rất nhẹ cái sai của mình. Sau đó chúng ta học tập nghị quyết của Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20, một luồng gió mới thổi rất mạnh vào trong Đảng và trong nhân dân. Liền đó là lớp học lý luận văn nghệ do Hội tổ chức; dưới ánh sáng của những nguyên tắc cơ bản về văn nghệ, anh em văn nghệ phê bình việc này rất sôi nổi. Lúc bấy giờ tôi mới đo được cái sai lầm của tôi. Nhưng đi theo với những lời phê bình rất chính đáng, cũng có nhiều những lời đả kích, những lời bịa đặt. Tôi nổi tự ái lên, tôi không tự phê bình. Rồi những công việc sự vụ hàng ngày lôi cuốn tôi đi. Tôi cứ thế buông xuôi. Mãi đến hôm Quốc khánh vừa rồi, ở quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào, Hồ Chủ tịch sau khi nhắc lại những thắng lợi của ta nói rõ ràng cái điều trước đó đã đăng báo nhưng hôm ấy tôi nghe như rất đột ngột là ta cũng đã phạm những sai lầm lớn, tôi cảm thấy sâu sắc cái vĩ đại của chế độ, của Đảng đang vươn mình lên trên mọi sĩ diện, tự ái, động cơ cá nhân nhỏ nhặt để sửa chữa khuyết điểm, khắc phục khó khăn, đưa nhân dân đến những thắng lợi mới. Tôi thấy tôi không thể nào không đấu tranh quyết liệt với mình để góp phần vào sự nghiệp chung của Đảng.
Nhưng nghĩ lại, đấu tranh với sai lầm của người sao mà tôi vội vàng thế, đến khi đấu tranh với sai lầm của mình lại chậm chạp thế? Và cả hai thái độ trên đây đều đã gây rất nhiều tai hại.
Trước hết tôi đã làm cho nhiều người nhất là những bạn đọc ở xa không hiểu rõ đầu đuôi cũng nhận định sai lầm như tôi. Thật là một điều oan ức đối với anh Trần Dần. Không có một chứng cớ gì rõ rệt mà đã bị buộc tội trên mặt báo trước hàng vạn người! Một đồng chí Trung ương Đảng nói: Gắn một chữ phản động vào tên người ta như vậy là một điều đến mấy đời sau này con cháu người ta còn lấy làm khổ. Tôi rất thấm thía về điều này.
Sự lầm lẫn bạn thù trong việc phê bình còn gây một không khí e ngại không có lợi. Có người đã phải nói: Làm văn nghệ khó thật. Người sáng tác cũng như người biểu diễn có có được cái tư thế của những con người hoàn toàn giải phóng thì công trình sáng tác biểu diễn mới có điều kiện thực sự thành công.
Một điều tai hại hơn nữa là những sai lầm của tôi cùng với những sai lầm khác có thể làm cho một số người hiểu lầm về bản chất của văn nghệ ta, là nền văn nghệ hoàn toàn tự do, thực sự tự do đầu tiên trong lịch sử văn nghệ Việt Nam.
Những sai lầm của tôi trong cuộc phê bình bài Nhất định thắng đối với tôi là một bài học lớn. Cách mạng tháng Tám và liền đó cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc đã chuyển đời tôi và tư tưởng tôi theo một hướng mới: hướng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Cũng trên hướng đó, chỉnh huấn và việc tham gia đấu tranh ở nông thôn nâng con người của tôi lên một bước: tôi bắt đầu nhìn thẳng vào con người cũ ở trong tôi và tôi thấy rõ muốn đi theo hướng mới không thể nào cứ yên ổn xuôi dòng đi xuôi mà phải đấu tranh bản thân quyết liệt. Nhưng con người cũ với các thứ yếu đuối, các thứ định kiến, các thứ tùy tiện của nó không phải đã chịu nằm im. Việc phê bình có tính chất đàn áp này là một ví dụ. Nhưng Đảng giúp tôi vùng dậy, anh em giúp tôi, cả bản chất của chế độ dân chủ cộng hòa giúp tôi. Với tôi đây là một cuộc chỉnh huấn mới một lần nữa nhắc tôi không thể nào đi theo hướng mới nếu không đồng thời gột rửa một số tàn tích trong mình.
HOÀI THANH
● Nguồn:
[báo] Văn nghệ, Hà Nội, s.139 (20.9.1956), tr.2.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tiến tới xét lại một vụ án văn học:
Con người Trần Dần
Hồi ký của Hoàng Cầm

Lời toà soạn
Ít lâu nay, nhất là trong giới văn nghệ, vấn đề Trần Dần được nhiều người nhắc tới. Đó không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà chính là vì vấn đề Trần Dần không còn là một vấn đề riêng của anh hay của một số người nào, mà là vấn đề của chung, có liên quan tới quyền chính đáng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác của tất cả mọi người.
Theo tinh thần đó, chúng tôi đăng bài này. ‒ N.V.

Lần đầu tiên tôi biết Trần Dần là trong một trại hè của các đoàn văn công quân đội năm (19…) Dáng người thấp, hơi thô, tay chân chắc nịnh, lúc nói chuyện thường ồn ào, giọng cười thẳng thắn, ròn rã. Đôi mắt xếch với cặp mày rậm làm cho khuôn mặt anh dữ tợn, nhưng đến khi anh há mồm ra cười thì trông lại như một đứa trẻ con.
Tôi biết tiếng anh từ lâu. ‒ Ở bộ đội Sơn La, từ đầu năm 1947, nổi tiếng có một anh Trần Dần nào đó thường vẽ và làm thơ có nhiều cái rất lạ, anh em văn nghệ xung quanh thì rất thích nhưng đồn rằng bộ đội thì không hiểu và một số cán bộ chính trị ở đơn vị thì lấy làm bực mình.
Tới trại hè năm 1951, các đoàn văn công nỗ lực tập luyện để phục vụ một chiến dịch lớn. Trần Dần phụ trách huấn luyện cho mấy trăm anh chị em: sáng tác đạo diễn và diễn viên. Trong bóng rợp của một rừng nứa, giọng anh rủ rỉ như lời tâm sự, giảng về văn nghệ nhân dân. Văn nghệ  do dân, vì dân, có Đảng lãnh đạo. Giọng anh thấm thía từng ngày lên lớp. Mấy trăm anh chị em lần đầu tiên được học một tài liệu dài đến gần hai tháng, đều vui  trong lòng như một người đi trong đêm rét, chợt nhìn thấy lửa ấm của một túp nhà. Học xong tài liệu Văn nghệ nhân dân, anh chị em say sưa công tác hơn vì người giảng viên Trần Dần đã thổi vào tâm sự mọi người một cái tự hào. Đến bây giờ tôi còn nhớ hai câu thơ của Lỗ Tấn mà Trần Dần đọc ra để dẫn chứng cho tài liệu:
Hoành mi lãnh đối thiên phu chỉ
Phủ thủ cam nhi nhụ tử ngưu
Học xong phần lý luận có thể nói hầu hết anh chị em văn công đều yêu mến Trần Dần như một người bạn từ lâu lắm. Những người có chuyện riêng gỡ mãi không ra, đều tìm đến hỏi Trần Dần.  Một anh sắp lấy vợ, một chị bị ép chồng, một diễn viên già có vợ ở vùng tạm chiến, đều đến tìm Trần Dần – không phải là một câu trả lời thoả đáng – nhưng chính là một sự an ủi, một câu nói chí tình, và để nghe ở anh cái giọng cười quen thuộc, giọng cười vô tư, rất yêu đời.
Dần dần anh chị em gọi Trần Dần là “thày tướng” và lắm khi tin anh như một người đau khổ ngày trước tin số mệnh, đã đặt cho anh một cái tên “Trần Dần cốc tử”.
Hồi ấy Trần Dần yêu một nữ diễn viên văn công. Vốn tính cương trực, lỗ mãng, anh không biết cách nào khéo léo để lấy lòng yêu của người đàn bà. Anh không biết nói đẹp, nói hay, chỉ non thề bể, xem lá rụng hoa tàn để vừa ý một cô gái rất đỏng đảnh. Gặp cô, anh “tấn công” luôn, rất thô kệch. Cô ấy sợ, và chạy trốn. Anh đuổi không kịp.
Rồi anh thất vọng to, và cũng biết khóc. Một lần bắt chợt anh ôm đầu khóc, tôi kéo mấy anh bạn vào xem: “Vào đây xem voi chảy nước mắt các cậu ơi!” Mãi về sau hình ảnh cô gái đó đột hiện lên, tươi roi rói, đẹp và anh dũng trong những trang đầy nhiệt huyết của cuốn truyện Người người lớp lớp .
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trần Dần thức thâu đêm suốt sáng để viết bản thảo lần thứ ba cuốn truyện về những người đã tạo ra chiến thắng lịch sử lớn lao đó. Dạo ấy tôi thấy anh gầy rộc đi, mắt trũng trong một quầng thâm rộng. Nhưng mắt anh có những tia sáng mới. Anh biết anh đang luyện ngòi bút cho thật sắc sảo, “có sắc sảo mới diễn tả hết con người và cuộc đời”. Anh rất ghét lối viết dễ dãi, tạm bợ, tả bộ đội chỉ thấy súng nổ, lửa bốc, chỉ thấy uỳnh oàng mà chẳng thấy người. Anh gọi những loại văn đó là: văn chương khói lửa mịt mù. Nhìn vào những trang sách, độc giả tìm kiếm mãi mà chưa thấy một người, chưa thấy việc đời, chỉ thấy lổn nhổn những bộ máy lắp đi lắp lại và một lô danh từ, hình ảnh trống rỗng, thùng rỗng kêu to.
“Nhưng cái hướng chính của tôi không phải là tiểu thuyết. Hướng đi của tôi là thơ. Tôi sẽ tìm tòi trong thơ và cố gắng tạo ra một lỗi diễn tả riêng biệt – không phải lập dị – nhưng độc đáo.”
Trần Dần đã nói với tôi như vậy sau khi anh viết xong Người người lớp lớp. Hồi đó, anh có đưa tôi xem tập thơ làm đã lâu: Tiếng trống tương lai .
Đọc lần đầu tiên, tôi không thích. Tôi cho Trần Dần là lập dị. Đọc lần thứ hai, thứ ba, tôi vẫn không thấy thích, nhưng dần dần tìm ra được nhiều cái mới lạ, khác với nếp cũ thông thường. Tuy nhiên, tôi vẫn không thấy thích cái lối thơ ấy. Dần dà đọc nhiều bài thơ anh làm về sau, tôi càng thấy “cái anh chàng này khác thường”. Khác thường theo ý tôi chưa chắc là đã hay. Dù sao do thơ Trần Dần, tôi suy nghĩ nhiều về trách nhiệm người làm thơ trước cuộc đời: đi sâu vào đời sống có suy nghĩ của con người, tìm cách diễn tả riêng, tạo ra một thế giới riêng cho mình. Tôi thấy thơ Trần Dần có phần đau xót, u ám, nhiều khi rất buồn, vừa cộc cằn lại vừa có cái tự hào sôi nổi, nhiệt tình thẳng thắn, táo bạo.
Nhưng giọng thơ của anh, vẫn không lọt được vào tâm hồn tôi – một người làm thơ theo một dòng khác. Dù sao tôi vẫn trân trọng và quý mến những cái tìm tòi của Trần Dần trong thơ. Tôi cũng nghĩ như anh thường nói: Mỗi người làm một kiểu. Có thơ như tiếng sáo, có thơ như tiếng kèn, có thơ như tiếng trống. Đừng bắt thơ ai phải giống ai. Có thế mới thành một cuộc “hoà âm” lớn của thi ca. Độc giả thơ cũng ví như người xem xiếc. Có người thích kiểu tung cầu, kiểu đứng trên lưng ngựa. Lại có người thích xem dạy hổ, leo dây. Nhiều khi sợ đến rùng mình, nhắm mắt. Mỗi dòng thơ thích hợp cho một loại độc giả. Có thế mới trăm hoa đua nở được. Gò bó theo ý thích chủ quan của một vài người, thơ sẽ thành hoa giấy đóng hộp bày trong tủ kính.
Hồi đó, tôi chưa biết Mai-a-cốp-sky. Khi hoà bình lập lại, về Hà Nội, đọc Mai-a, tôi thấy hơi thơ và cách diễn tả của Trần Dần có nhiều chỗ giống Mai-a. Tôi trách anh:
Sao cậu lại bắt chước Mai-a? Bắt chước thì không thể nào độc đáo được.”
Trần Dần nói:
“Tâm hồn có giống nhau thì mới ảnh hưởng sâu sắc được chứ! Mình bị ảnh hưởng Mai-a thực, nhưng cái chính là mình chịu ảnh hưởng thực tế cách mạng Việt Nam. Do đó mình sẽ dần trở thành mình.”
Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần được phân công viết thuyết minh cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ và anh được cử sang Trung Quốc làm nhiệm vụ đó. Nhưng đi kèm bên cạnh anh là một cán bộ chính trị có quyền tối hậu quyết định . Anh cán bộ này, đáng lẽ phạm vi công tác là góp ý kiến vào nội dung bản thuyết minh và bảo đảm cho nó không phạm những sai lầm về đường lối chính sách của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thì đã lợi dụng uy quyền của mình đi quá xa vào phạm vi văn học, bắt Trần Dần phải viết như ý mình, từng câu từng chữ, lạm dụng danh từ chính trị khô khan rỗng tuếch để nhét cho kỳ được vào bản thuyết minh.
Đầu tiên, Trần Dần rất phục tùng người cán bộ chính trị khi dự thảo thuyết minh, và hoàn toàn theo sát những vấn đề chính trị sẽ đặt ra khi thuyết minh. Đến khi thấy anh cán ấy “lên gân” và thọc bàn tay cứng lạnh vào phạm vi viết văn thì Trần Dần bắt đầu có phản ứng. Nhưng anh vẫn bình tĩnh, đề nghị cấp trên xét lại vấn đề. Đến khi “anh cán bộ vẫn là tối hậu quyết định cả từng câu chữ” thì Trần Dần thôi không làm công việc đó nữa, nhường cả phần “văn chương” cho đồng chí cán bộ.
Sau việc này sự mâu thuẫn giữa văn nghệ sĩ và cán bộ chính trị bắt đầu phát triển khá mạnh trong con người Trần Dần. Anh vẫn cố dẹp đi, nhiều lúc anh thẫn thờ ít cười ít nói nhưng vốn là con người chân thực – cái chân thực nhiều khi đến thô lỗ – lắm khi anh đã cục cằn, thốt ra những lời gay gắt thiếu lịch sự. Anh thường bàn với anh em, khi thấy nhiều thắc mắc quanh việc này: “Ôi già! Cái con số cán bộ chính trị bóp chết nghệ thuật thì không ít đâu. Làm thế nào để Trung ương Đảng biết rõ tình hình và đề ra những chính sách cụ thể cho văn nghệ sĩ, đó là nhiệm vụ của mỗi đứa chúng mình. Tin Đảng, yêu Đảng, đi theo Đảng đến cùng thì phải có phần góp ý kiến cho Đảng. Đảng cần nhiều khối óc, cần nhiều bàn tay, cần nhiều trái tim, chứ Đảng không cần đến những con người máy, giật thế nào làm thế ấy”.
Đó là động lực thúc đẩy Trần Dần, rồi đến Tử Phác, Đỗ Nhuận, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, và rất đông anh em công tác văn nghệ trong bộ đội dự thảo ra bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” trình bày với cấp trên hồi đầu năm 1955, tại Hà Nội.
Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị.
Trong thời gian bản dự thảo còn bàn đi bàn lại, thì bỗng có một người đàn bà đến rất nhanh chóng trong đời sống của Trần Dần. Một chị ngoài 20 tuổi, đi đạo, ở Hà Nội mới giải phóng. Trần Dần gặp người đó và hai người yêu nhau. Lúc mới yêu người ta dễ say. Trần Dần lại là người chưa từng được yêu bao giờ, dù anh đã gần 30 tuổi. Anh mê man với mối tình đó buổi đầu và đã đôi ba lần làm trái với nội quy sinh hoạt của bộ đội. Cái tật xấu nhất của Trần Dần là bừa bãi trong sinh hoạt: quần áo, sách vở, vứt lung tung, bạ đâu ngủ đấy. Trong sự giao thiệp với người đàn bà này, anh cũng rất bừa bãi. Mới quen lần đầu đã nghiễm nhiên vác ba lô đến ở chơi nhà người ta vài ngày, rồi cười đùa ầm ỹ. Anh đã sấn sổ đòi tình yêu. Người thiếu nữ có lẽ vì sợ đôi mắt xếch đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, và đến lúc nhượng bộ cuối cùng: chị đã trao cả cuộc đời mình cho anh. Nhân lúc đang ốm yếu, được phép nghỉ, anh đã đến nhà người yêu ở hàng nửa tháng liền. Và anh đề nghị cấp trên cho anh được cưới.
Một người con gái mới lớn, đã sống trong không khí tôn giáo, sống trong vùng tạm chiếm lâu năm, lại có được uỷ quyền cho thuê mấy cái nhà, bây giờ bỗng dưng yêu một anh cán bộ quân đội. Vấn đề gì đặt ra đây?
Trần Dần vẫn yêu đắm đuối và ngang ngạnh. Anh đề nghị đơn vị đi sát giúp đỡ anh. Lý lịch người thiếu nữ, theo anh, không có gì là mờ ám. Một công dân còn trẻ, chưa hiểu việc đời nhiều lắm, trình độ chính trị rất thấp, nhưng biết yêu lá cờ vinh quang của Tổ quốc, ngày giải phóng thủ đô, cũng chạy ra đường vẫy quân đội, miệng hoan hô không biết mỏi.
Trần Dần ngày càng không thể dứt ra được tình yêu dù anh biết mối tình đó sẽ gặp nhiều trắc trở. Quả nhiên, không ai “tán thành” tình yêu của anh, trừ một vài người bạn thân. Có người lên giọng đạo đức: Thằng Dần sa ngã rồi. Mới về Hà Nội đã hư hỏng, hoà bình chủ nghĩa thật.
Có người nghiêm nét mặt, đề cao cảnh giác: Cẩn thận! Kẻo sa lưới địch! Nó đang âm mưu tấn công vào hàng ngũ ta.
Tình yêu của Dần với cô gái Hà Nội đã làm cho anh em chung quanh bàn tán sôi nổi. Nhưng không ai chịu khó đi tìm chân lý. Những câu chuyện nói cho vui mồm, những lời dèm pha, chế giễu, những “nhận định” cao siêu, những “lập trường” “quan điểm” giai cấp tính, tư tưởng tính, “tư sản” và “vô sản” v.v… Người ta rút những câu to lớn nhất trong hàng chục pho sách chính trị để quy kết cho một mối tình.
Trần Dần đã gục mặt vào tay đau đớn. Tôi đã gặp anh ngồi lặng hàng giờ trong một căn phòng quần áo bàn ghế bừa bãi ở nhà người thiếu nữ đó. Giữa anh và chị, có một niềm tủi cực, cay đắng, xót xa. Chị đã thôi không trang điểm, xếp áo màu vào tủ, có cái thì đem cắt ngắn, nhuộm nâu. Đã tan đi từ lâu lắm tiếng cười ròn rã. Trong giọng nói đã thấy ngấn nước mắt. Có vài căn nhà được uỷ quyền cho thuê, chị đã nghe lời anh đem giao lại cho Ủy ban nhà cửa. Đầu tiên, khi nghe người yêu bàn việc đó, chị K. ngạc nhiên mắt đen tròn mở to:
“Thế rồi sống bằng gì hả anh? Sao lại giả nhà cho Chính phủ hở anh? Chính phủ có kết tội những người có nhà cho thuê không hở anh?”
Rất nhiều câu hỏi. Anh đã bàn:
“Không! Chính phủ vẫn bảo đảm cho người có nhà cho thuê. Nhưng chúng mình phải làm lấy mà sống. Không nhờ vào đâu cả, ngoài bốn cánh tay mình, đủ sống thì thôi.”
Trần Dần hết sức giải thích cho người yêu và hướng người yêu vào cong đường “làm lấy mà sống” “đừng nhờ vả ai”. Hình ảnh người con gái đi tìm việc làm trong mưa, về sau tôi lại gặp rất đau xót, trong bài thơ “Nhất định thắng” in trong tập Giai phẩm mùa Xuân 1956.
Mối tình đó kéo lê những ngày lo sợ, buồn phiền. Trần Dần không ngờ yêu lại khổ đến thế này. Cùng một thời gian đó, bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” thảo luận chưa xong. Giời sang hè, mùa mưa tầm tã. Trần Dần và người yêu vẫn sống trong một góc nhà tối thiếu ánh sáng. Bữa cơm không vui. Bụi phố Sinh Từ rắc vào nhà như sương, bụi phủ trắng mặt bàn ghế. Ăn vội vàng, Trần Dần lại về đơn vị để rồi lại được nghe những lời phê phán, những tiếng xì xào. Và người thiếu nữ lại chân đất, áo ngắn, đi tìm việc làm, có hôm từ sáng đến tôi mới về:
Em đi trong mưa… cúi đầu… nghiêng vai
Đến ngày họp bàn về dự thảo chính sách, Trần Dần được anh em cử ra trình bày. Nguyện vọng của bao nhiêu văn nghệ sĩ trong quân đội. Làm thế nào để sáng tác hay, phục vụ được sâu sắc. Anh nói say mê, nhiệt tình. Trong cách nói nhiều khi bốc. Mặt anh khi đỏ gay, khi tái lại:
“Giả văn nghệ cho anh em văn nghệ sĩ! Phân rõ ranh giới giữa cán bộ chính trị và văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ phải có sự lãnh đạo của Đảng, nhưng không thể biến thành cái máy v.v…”
Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:
“Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!”
Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang.
Thêm vào đó, câu chuyện tình chưa được công nhận. Bóng người con gái hiền lành, hay khóc, người yêu của Trần Dần bỗng trở thành một thứ gì ám ảnh: Một bóng ma đáng sợ. Người nào muốn tỏ ra “lập trường tư tưởng vững chắc” không bị “tư tưởng tư sản tấn công” đều phải ghét người con gái ấy đi. Tình cảm day dứt đến cực độ, như một cành cây non bị quật lên quật xuống trong trận bão khổng lồ, Trần Dần không còn biết bộc bạch cùng ai. Nói gì bây giờ cũng khó lọt qua tai những người “vững lập trường lòng lim dạ sắt”. Trần Dần gần như phát điên. Hết đứng lại ngồi, lại chạy ra phố, lại về đơn vị, ở đâu anh cũng thấy như có những dây trói vô hình mỗi ngày một thít chặt vào trái tim anh.
Cùng một thời gian ấy, những sự kiện lớn trong phong trào văn nghệ dồn dập tới: Phê bình tập thơ Việt Bắc, Trần Dần nhận định tập thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại và mắc một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hoá lãnh tụ.
Và truyện Người người lớp lớp phát hành hàng vạn cuốn, được hoan nghênh. Và cuộc phê bình Vượt Côn Đảo  cũng sôi nổi không kém cuộc phê bình Việt Bắc. Trần Dần viết một bài phê bình Vượt Côn Đảo giọng châm biếm cục cằn, khiến nhiều người phản đối. Trong một không khí hết sức căng thẳng của văn nghệ bấy giờ, lại bị quy kết là thoát ly chính trị, tư sản tấn công, hoà bình chủ nghĩa v.v… rất nhiều anh em bị cuốn vào một chỗ mịt mù, chân lý gần như bị ngập bởi các thứ thành kiến, chụp mũ hung hăng.
 
Con giun bị xéo mãi cũng quằn lên. Trần Dần có lúc oang oang ăn to nói lớn, có lúc tranh luận sôi nổi, có lúc nóng nảy văng tục, có lúc lầm lì ngồi một xó, khi thì ngâm thơ giọng buồn thấm thía, khi thì cao đàm hùng biện, khi thì lại vò đầu bứt tóc, nhiều lúc ứa nước mắt, ôm mặt nằm cò queo một mình, có lúc nấc lên, đầu bù tóc rối.
Tấn thảm kịch đã đi đến một chỗ thắt nút quằn quại. Người yêu của anh bắt đầu có mang. Và đột nhiên anh bị giữ ở đơn vị để kiểm thảo cùng với Tử Phác, quanh quẩn trong một gian phòng. Một tháng, rồi hai tháng, ba tháng. Những ngày đầu tiên, như cơn sốt rét đột ngột, anh kêu lên:
  
“Tôi có tội gì? Tôi có tội gì mà giữ tôi ở lại?” Người yêu anh bỗng thấy anh không về nhà nữa. Nhưng trận ốm nghén đầu tiên đã quật chị xuống như một con bệnh nặng. Mặt choắt lại, người chỉ còn da với xương. Một mình ở một căn nhà bừa bộn với một con chó gầy còm, không cha mẹ, không anh em , không bạn bè, chỉ có bà hàng xóm bán guốc thỉnh thoảng chạy đi chạy lại nấu cho bát cháo. Tôi đến gặp chị mếu máo, trông già đi hàng chục tuổi. Chị hỏi:
“Sao anh Dần không về với tôi nữa hở anh?”
Tôi giải thích: “Anh ấy bận công tác ít lâu thôi. Chị đang ốm, có cần gì, chúng tôi sẽ giúp chị.”
Chị oà lên khóc:
“Bộ đội có cho tôi lấy anh ấy không?”
Tôi lại khuyên nhủ:
“Có chứ! Ai cấm đâu!”
Chị bỗng khóc to hơn:
“Phải rồi, không ai cấm tôi và anh ấy lấy nhau. Bộ đội người ta không cấm nhưng anh Dần bỏ tôi rồi! Tôi bụng mang dạ chửa thế này, anh ấy bỏ tôi trốn rồi!”
Rồi chị gào lên:
“Bạc như vôi ấy giời ơi! Anh ấy không muốn ăn ở với tôi nữa thì cứ bảo tôi biết, việc gì phải lấy cớ công tác này công tác nọ.”
Tôi thấy chua chát lạ lùng, nhưng chỉ nói tránh đi:
“Anh ấy bận công tác thật đấy mà!”
Chị vẫn một mực:
“Anh ấy nói dối! Cả anh nữa cũng nói dối. Thôi tôi chết đi! Tôi chết đi cho anh ấy đỡ bận! Mà đỡ phiền cả các anh…”
Một số bạn thân của Trần Dần phải cắt nhau đến canh ở đấy, giải thích an ủi, giúp đỡ một người con gái mới yêu lần đầu mà đã bị dao cắt ruột gan.
Trong những ngày u uất đó, anh không được biết tin người yêu, ngồi vò võ trong phòng kiểm thảo. Qua lúc đầu tiên đột ngột, tâm trí anh dần dần bình tĩnh lại.
Ba tháng hết nằm lại ngồi, anh đã trải qua một đoạn đời đau khổ. Nhưng ở Trần Dần luôn luôn có tình yêu sự sống rất mãnh liệt nó đã ngăn không cho anh đến chỗ huỷ hoại cuộc đời còn rất trẻ của mình. Anh viết bài thơ “Nhất định thắng” (vào khoảng tháng Tư 1955).
Lần đầu tiên tôi vào thăm anh, với một món quà nhỏ: Một túm nhãn tôi mua ngoài phố. Anh vồ lấy ăn ngấu nghiến rồi cười oang oang: “Thi đua với các cậu làm thơ nhé!”.
Thấy tôi rơm rớm nước mắt, anh bỗng hạ thấp giọng:
“Đừng buồn cho mình. Mình cũng nhiều khuyết điểm lắm: có tự kiêu, có nóng nảy, có tự do vô kỷ luật thật. Nhưng không bao giờ không trung thành với Đảng, dù bị mắc tiếng oan, dù bị kỷ luật. Và mình tin những cái độc đoán của một vài cá nhân rồi đây sẽ không còn nữa. Đảng là một khối sáng suốt. Tương lai chúng mình, Đảng sẽ đảm bảo, dù bây giờ Đảng có thể chưa hiểu mình.”
Anh lại đọc Mai-a, đọc Sê-cốp, Goóc-ki. Anh lại nằm nghiền ngẫm Đất vỡ hoang và Trên sông Đông êm đềm của Sô-lô-cốp.
Cánh cửa có chấn song sắt khép lại, tôi lùi ra và cảm thấy gian phòng kia không còn chật hẹp, tù hãm nữa đối với một con người đầy lòng tin như Trần Dần.
Hết 3 tháng kiểm thảo, anh lại được về với người yêu. Chị ấy lúc đầu còn giận dỗi:
“Thôi anh đi đâu thì đi, mặc xác tôi”. Nhưng chẳng bao lâu, mắt lại sáng, tiếng cười lại trở về trong căn nhà bề bộn những bàn ghế quần áo và ống chỉ, dao kéo. Chị đã bắt đầu may sẵn áo cho đứa con đang cựa trong bụng. Chị đã xin được việc làm:
Trời đã thôi mưa… thôi gió
Đã thấy nắng lên trên màu cờ đỏ
Rồi Trần Dần đi tham quan Cải cách Ruộng đất . Bài thơ “Nhất định thắng” gửi Lê Đạt giữ từ lâu, anh cũng gần như quên đi, óc còn mải nghĩ về những mặt khác của cuộc sống để chuẩn bị cho những bài thơ khác sẽ ra đời.
Đã gần đến Tết ta. Một số anh em đã thấy say sưa sáng tác. Tôi chạy đi chạy lại gom góp sáng tác của dăm ba người bạn và nghĩ rằng phải xuất bản một tập văn thơ mùa Xuân để đóng góp với mùa xuân mới của văn nghệ đang sắp nở.
Và nhận thấy cái kỷ luật “cấm sáng tác” do một vài người công bố đối với Trần Dần là một điều vô lý, sai chính sách của Đảng, và đang lúc Trần Dần đi công tác xa xôi không biết anh có sáng tác gì mới không, tôi bèn tìm lại bài thơ Nhất định thắng và cho đăng vào cái Giai phẩm mùa Xuân mà tôi là người soạn bài.
Cứ để bông hoa đó nở thì đã hại gì ai mà có thể có lợi. Nhưng hoa chưa kịp nở, thì đã bị dập vùi. Giai phẩm mùa Xuân bị kết tội, bài thơ Nhất định thắng bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù:
Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam .
Cái nút thứ hai khốc liệt hơn, của tấn thảm kịch Trần Dần.
Những ngày mùa xuân 1956, tôi đau đớn như có búa nện vào óc, có đinh đóng vào tim, và có dây trói chặt vào chân tay.
Mùng hai Tết, tôi ăn bữa cơm cuối cùng với Trần Dần. Giữa hai tợp rượu, đã thấy những cơn bão đe doạ, mà lần này chắc ghê hơn lần trước. Chị K. không biết gì vẫn vui vẻ ngồi bóc bánh, rồi xếp dọn ba lô cho chồng để anh ăn xong thì lại đi công tác.
Không khí văn nghệ như sắp sửa có trận bão. Không biết từ đâu cái tin “Trần Dần phản động”, “Trong Giai phẩm có mấy tên phản động” bỗng truyền ra rất nhanh. Những tin không hay dồn đến, bổ vây tôi và anh Trần Dần còn đang ăn dở miếng bánh chưng Tết. Chị K. tái mặt, để rơi đôi đũa, nước mắt đã vòng quanh:
Thế là thế nào hả các anh? Phen này lại bị bắt nữa thì tôi sống thế nào được? Các anh rủ nhau làm những chuyện gì mà khổ sở thế không biết!
Trần Dần cũng tái mặt, anh cắn chặt môi, xốc ba lô lên vai, an ủi vợ:
Em đừng lo. Tin đồn bậy bạ đấy thôi. Anh đi công tác đây, gần đến tháng đẻ, em đừng lo nghĩ gì cả.”
Nhưng chị K. không thể bình tĩnh được. Chị tiễn chồng ra cửa khóc oà lên:
“Anh ơi… Anh có về nữa không, anh ơi!”
Cổ tôi bỗng nghẹn nước mắt. Tôi cố cười:
“Ồ cái chị này lẩn thẩn. Thôi để anh ấy đi nào…”
Trần Dần ngửng mặt bước đi, ruột tôi bỗng thắt lại: Chuyến này mà nó có làm sao thì chỉ tại mình. Đang tự dưng bày ra cái Giai phẩm. Tuy chưa phải là những sáng tác xuất sắc, nhưng ít ra nó cũng nêu được vấn đề gì. Có vấn đề xã hội trong thơ Văn Cao, có vấn đề chống công thức trong thơ Lê Đạt. Và tuy tôi không hoàn toàn thích bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần, tôi cũng đưa in, vì tôi thấy ít ra nó cũng khác với lối làm thơ một chiều. Dù sao thì cũng có ít ra vài ba con cá quẫy mạnh trên mặt ao tù bấy lâu phẳng lặng.
Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội.
Y như một xóm đang đêm tối bỗng có tiếng kêu “Cướp! Cướp! Cướp đã đến”. Lập tức mọi người mắt nhắm mắt mở, vớ lấy giáo mác, gậy gộc, chạy xô ra ngõ, gặp một cái bóng đen. Cả làng hầm hè đánh. Roi gậy, giáo mác, gạch củ đậu thi nhau nện xuống cái bóng người. Một trận đòn nhử tử. Cái tâm lý đánh cướp này là tâm lý chung của nhưng người muốn bảo vệ nhà cửa, xóm làng của mình. Cái bóng đen gục xuống. Mọi người lại về nhà đi ngủ. Sáng hôm sau, mặt trời mọc, đi ra ngõ, thì ra cái “bọn cướp” đó chỉ là một anh đang đêm nực nội mò đi hóng mây gió.
Những người đã cầm gậy đánh, đều rất có lý: “Hô lên là cướp thì ông đừng giã bỏ mẹ đi à?”
Họ là những người yêu làng yêu nước, họ không có lỗi gì. Nhưng lỗi ở những ai hô cướp?
Kẻ nào hô ra hai tiếng “phản động” đầu tiên để gọi cả làng ra đánh chết Trần Dần?
Tôi cố suy mãi, lòng như dao chém. Thôi thế là đêm luận tội đã đóng án tử hình xuống một bài thơ; xuống một con người, đồng thời là một sự đe doạ nặng nề chung cho anh em văn nghệ sĩ đang muốn tìm những lối sáng tác khác với bè phái bên kia.
Sau cuộc lên án đó, tôi không được biết tin gì về anh. Tôi đoán biết được lần này thì anh sẽ thực sự ngồi tù. Vợ anh gần đến tháng ở cữ, vật vã khó suốt ngày suốt đêm vì quả nhiên, sau cái ngày mùng 2 Tết ấy, anh đi không về nữa.
Tôi cũng ân hận hết ngày ấy qua ngày khác, luôn thấy mình là thằng làm hại bạn: “Dần ơi, bây giờ mày nằm trong nhà tù nào, mày có trách tao không?”
Lần này tôi lo sợ hơn lần trước anh bị giam lỏng hơn 3 tháng. Lần này cái bè phái độc quyền văn nghệ kia nó quyết liệt hơn trước, trong không khí văn nghệ đã nghe thấy máu lửa. Tôi lo ngày lo đêm đến con người anh. Lần trước, anh còn chịu được và còn có thể bình tĩnh. Đến lần này, liệu anh còn có đủ can đảm chịu đựng hay không? Tôi đã nghĩ đến cái phút đau đớn cực độ, anh không thiết sống nữa thì một lưỡi dao, một cái đập đầu vào tường… tôi sẽ mất một người bạn, và chúng ta mất tác giả Người người lớp lớp, tương lai mất một nhà thơ.
Khi chị K. ốm nghén, bơ vơ trong một căn nhà, chống gậy sang hàng xóm xin từng ngụm nước, là lúc người yêu của chị đi ba tháng không về.
Khi chị K. đau quằn quại, cho ra đời đứa đầu tiên của một mối tình cay đắng, là lúc người yêu của chị lại đi… không biết bao giờ về.
Đứa bé ra đời, còm rom như một con mèo ốm. Nó quặt quẹo, sài đẹn mấy lần tưởng chết. Chị K. nuôi con bằng nước mắt nhiều hơn bằng sữa.
Tin anh vẫn mịt mù. Lần này chị không còn hiểu lầm anh là “phụ bạc” mà chị đã biết thực sự. Chị không oán thán nữa, chỉ ôm con mà khóc. Có lần tôi đến thăm, chị kể lể:
Giá đừng biết nhau, đừng yêu nhau thì anh ấy đỡ khổ, tôi cũng đỡ khổ và không đến nỗi phải cho ra đời một đứa bé khổ sở thế này. Liệu nó có mất bố không hở anh? Liệu tôi có goá chồng sớm không hở anh?
Tôi như bị chích vào vào gan. Bế đứa bé thấy nhẹ bỗng, mặt mũi nó nhăn nhúm, méo mó, tôi đã khóc và suy nghĩ rất lâu về giá trị con người. Đặt tên cháu bé là gì để kỷ niệm những ngày bố cháu và nhân phẩm văn nghệ sĩ bị trà đạp xuống bùn đen?
Hôm nay
Trời đã thôi mưa thôi gió
Nắng lên đỏ phố đỏ nhà
Đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi! Đếm thử bao nhiêu ngày mưa…
Sau khi học tập nghị quyết của Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, cái tin vui từ lòng tôi tự dưng toả ra: Trần Dần chắc sẽ được về!
Quả nhiên, một buổi chiều sang hè anh đã về. Tin đó đến với tôi không đột ngột lắm, vì tôi tin chắc ở ánh sáng Đảng Cộng sản Liên Xô, tin ở chân lý mà Đảng ta nắm rất vững.
Anh đã về. Gặp anh, tôi không nói gì được. Vẻ mặt anh vẫn vui, nhưng có hằn thêm những nét khắc khổ. Da mặt xanh, người gầy gộc. Nói chưa được một câu, anh đã cười, vẫn giọng cười hồn nhiên, khoe với tôi bốn bài thơ anh làm trong lúc bị giam, và khoe rằng sở dĩ anh được về là nhờ có sự sáng suốt của Trung ương Đảng.
Tôi đọc kỹ bốn bài thơ đó, và nhìn anh, kinh ngạc. Tôi không thể nghĩ được rằng trong hoàn cảnh bị giam đau đớn thế, anh lại có đủ bình tĩnh làm những bài thơ sáng sủa chan chứa lòng yêu đời, yêu Đảng như thế này. Tôi thấy quí và kính phục người bạn mà tôi cho là rất anh dũng. Tôi khoan khoái đọc to mấy đoạn thơ của anh, anh ngửa mặt lên, tôi chợt nhìn thấy ở cổ anh có một vết sẹo dài nằm ngang cuống họng, thịt mới liền, còn đỏ tươi.
Tôi hiểu cả, không hỏi thêm anh điều gì… Trước mắt tôi, là một người có sức mạnh chống chọi với tủi nhục, với thành kiến, cả đến những lời vu cáo đanh thép nhất cũng rụng dưới chân anh như cỏ héo.
Trước mắt tôi là một người chí tình, tha thiết, đã có những giây phút bốc lên quá nóng nảy cục cằn, đã tự do bừa bãi nhưng không lúc nào ngừng hoạt động vì tiền đồ rực rỡ của văn nghệ.
Trước mắt tôi là một con người dũng cảm của Đảng, có thủy có chung, biết tin yêu Đảng vô bờ bến, biết căm ghét những cái thối nát đang làm hại đến uy tín của Đảng, của quân đội…
Trước mắt tôi là Trần Dần.
Trước mắt tôi lúc viết bài này là một chuyện kéo bè để vu cáo trắng trợn, một vụ án văn chương vô cùng oan ức, một tài năng và một tâm hồn trong sạch bị giày xéo.
Trước mắt tôi là lòng tin vào ánh sáng của Đảng. Ánh sáng đó sẽ soi rọi vào bất cứ chỗ nào đang cần bảo vệ giá trị con người.
(Những đoạn thơ trong bài trích từ bài thơ “Nhất định thắng”)
● Nguồn:
[báo] Nhân Văn, Hà Nội, s.1 (20.9.1956), tr.2, 4.