Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Ba bài học nghề dạy văn

Đường Văn
Thứ hai ngày 16 tháng 12 năm 2013 9:39 PM

(Nguyên Phó chủ nhiệm khoa Xă hội, trường CĐSP Hà Nội),

    Không phải những bài học nghề tiếp nhận từ các trường CĐSP Hà Nội, ĐHSP Hà Nội hoặc Đại học Tổng hợp quốc gia Kuban (CHLBNga; Liên xô cũ), nơi tôi từng tu nghiệp 5 – 6 năm mà từ một mái trường làng quê thân yêu, mái trường tôi đă vinh dự được làm học tṛò 7 mùa phượng nở những năm 50 – 60 thế kỷ trước, tôi muốn ôn lại một vài bài học sư phạm hữu ích về phương pháp dạy học (PPDH) môn Ngữ văn mà tôi thâu nhận được từ chính các thầy giáo kính yêu đă từng dạy chúng tôi, dưới mái trường rêu phong cổ kính ấy.
    Ba năm học cấp 2, (từ lớp 5 đến lớp 7; nay là 4 lớp: 6, 7, 8, 9), tôi lần lượt được học môn Văn với các thầy: Trần Ngọc, Trịnh Thanh và Nguyễn Viết. Ba thầy: 3 cá tính khác nhau, 3 phong cách sống và dạy Văn không giống nhau. Thầy Trần mực thước, điềm đạm; thầy Trịnh chỉn chu, kỹ lưỡng; thầy Nguyễn sôi nổi, hào hoa. Điểm chung của ba cụ là tác phong mô phạm, mẫu mực, từng nêu những tấm gương ngời sáng về nhiệt tâm, đạo đức người thầy để học sinh noi theo. Riêng về nghiệp vụ dạy môn Ngữ văn, các cụ đă để lại trong tôi, suốt gần 50 năm qua, từ thưở niên thiếu ngây thơ, trải hơn 40 năm làm đồng nghiệp thế hệ sau các thầy, cũng dạy Ngữ văn, Văn học, PPDH Văn, từ cấp THCS, THPT đến CĐSP và ĐHSP, bao nhiêu ấn tượng sâu đậm, ám ảnh, bấy nhiêu bài học vô cùng quý giá. Với tôi, trước tiên là 3 bài học tiêu biểu:

1.    Phương pháp dạy đọc văn
2.    Phương pháp hỏi, gợi
3.    Phương pháp giảng bình

    Xin được phân giải sơ qua từng bài học, cũng là tiện kể lại dăm câu chuyện nghề, trao đổi cùng bạn đồng nghiệp trẻ thế kỷ 21.

1.    Dạy đọc văn – đọc diễn cảm – sáng tạo

    Đó là một trong những PPDH Văn truyền thống và đặc thù, một trong những PP mà nếu người dạy vận dụng thành công sẽ đem lại chất văn, chất nghệ thuật rất riêng, mê hồn người học. Nhưng PP này phụ thuộc không ít vào bộ máy phát thanh trời phú cho thầy, cô giáo. Hiển nhiên, không phải ai dạy Văn cũng đều có thể đọc văn hay. Thầy Trần dạy tôi từ lớp 4, chuyển cấp dạy tiếp lớp 5. Tôi đă quá quen với giọng rành rơ, mạch lạc, như rót vào tai khi thầy cất tiếng đọc những bài tập đọc, chính tả. Lên lớp 5, trong những tiết Giảng văn (hiện nay gọi là Đọc hiểu văn bản), thầy đọc càng  khúc triết. Sức truyền cảm càng thâm trầm. Tôi nhớ măi thầy trích đọc đoạn văn của thằng học tṛò 11 tuổi - là tôi, tả cảnh quầy hàng bán thịt phiên chợ Vẽ Soi (27 tháng chạp ta hằng năm). Thầy đọc với cảm hứng chia sẻ thực sự, nhấn mạnh từ này, kéo dài từ kia. Tôi nghe đầy phấn khích, cứ ngỡ không phải văn mình!  Thầy Trịnh đọc văn như cố kìm nén cảm xúc, muốn để nội dung thông tin từ tác phẩm đến thẳng học sinh một cách khách quan và ngắn nhất; nhưng nhịp điệu lại khoan thai, chậm rãi, tuy hơi rề rà.
       Thầy Nguyễn có cách đọc văn thật sự cuốn hút, hào sảng. Những câu thơ Ta đi tới (Tố Hữu), Đáng sống bao nhiêu một ngày vì cách mạng! (Lưu Trùng Dương), Lên miền Tây (Bùi Minh Quốc) được chắp cánh bởi giọng đọc lửa reo, chuông rền, như vang vọng tiếng bước chân hành quân của những binh đoàn chiến thắng: Trên đường ta về lại Thủ đô, /Cờ đỏ bay quanh tóc bạc Bác Hồ! Lịm người, nghe thầy đọc bài thuyết minh phim Cây tre Việt Nam của Thép Mới (lớp 7, hiện nay dạy trích đoạn ở lớp 6). Nghiêng nghiêng đứng trên bục, đầu hơi ngả về sau, mắt kính lấp loáng, giọng sang sảng đấy, mà ngân nga, dìu dặt đấy: Diều bay, diều lá tre bay lưng trời. Gió đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều. Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông, hăy lắng nghe tiếng hát giữa trời cao của trúc, của tre.  Càng đọc, nét mặt, ánh mắt thầy càng sáng ngời, lấp lánh. Như ru, quên hết, chẳng ai c̣òn để ý đây là thơ hay văn; chỉ lắng nghe và miên man liên tưởng, tưởng tượng… Thoáng chốc, tâm hồn trẻ thơ cũng bay lên ngang lưng trời cùng tiếng sáo trúc, sáo tre của người nông dân Việt Nam vừa chiến thắng thực dân xâm lược Pháp. Với bài văn thuyết minh đặc sắc này, thầy đă giảng bằng đọc diễn cảm là chủ yếu. Kết quả: đă rất thành công về PPDH. Tôi nghĩ, ở cấp THCS – THPT, với một số văn bản trữ tình thích hợp, có thể tận dụng PP đọc văn – đọc diễn cảm – sáng tạo tới tối đa mà không sợ lạc đường, cảm tính, chủ quan hay hời hợt.
    Thầy Lê Văn – một trong số ít cây dạy Văn có hạng của Hà Nội 2 thập kỷ 60 - 70, một thư sinh Hà thành, mảnh mai, trắng trẻo. Thầy chỉ dạy lớp tôi có 1 lần (thay thầy Trần ốm) nhưng đă kịp thể hiện một cách đọc diễn cảm - nghệ thuật khác đầy ấn tượng. Giọng thầy trong, dịu, ấm, mềm và mượt như nhung. Gần 50 năm đă qua mà những câu văn trong bài Ký ức tuổi thơ (Đoàn Giỏi), qua giọng đọc ngọt sánh mật ong của thầy,vẫn thủ thỉ bên tai chúng tôi nỗi khắc khoải của những người con miền Nam trên đất Bắc khôn nguôi nhớ về tuổi thơ bên ḍòng kênh xanh mát bóng dừa, giữa trưa hè nắng lửa. Thầy đọc toàn bài một lần, rồi đọc lại từng đoạn. Đọc diễn cảm nhiều, giảng giải ít nhưng chúng tôi vẫn bị mê hoặc một cách tự nhiên không cưỡng nổi. Khoảng đầu những năm 70, khi đă là một giáo viên trẻ cấp 2, tôi có dịp dự giờ thầy dạy bài Nguyễn Trãi – Người anh hùng của dân tộc (Phạm Văn Đồng) cho HS lớp 7 quận Hoàn Kiếm; lại được thưởng thức giọng trầm bổng, nhiều luyến láy như ngâm, như hát của thầy đọc mẫu đoạn văn nghị luận nổi tiếng này.
    Có điều cũng phải thấy rằng, trong những tiết giảng văn hồi ấy, chủ yếu các thầy đọc. Học tṛò được đọc rất ít. Thậm chí có tiết các em chỉ nghe và ghi. Khi học sinh đọc xong, thầy cũng không nhận xét, bình luận, uốn nắn tỉ mỉ, kỹ càng. Nói cách khác, các thầy chưa chú ý đến việc hướng dẫn HS đọc, tạo điều kiện để các em được tham gia đọc văn trong giờ học văn. Nhưng đó không phải lỗi tự các thầy mà bởi cách dạy học văn ở nước ta thời ấy chỉ đến thế! PPD Văn - giảng văn truyền thống -  vẫn đang thịnh hành với trung tâm độc tôn là ông thầy. Học sinh chỉ là đối tượng thụ động  bên ngoài.

      2. Hỏi và gợi mở

    Nhìn chung, trong những tiết giảng văn hồi đó, thầy nêu câu hỏi rất ít, gợi mở càng sơ sài. Tuyệt không có chuyện học sinh dám đứng lên hỏi lại thầy điều này điều kia trong, ngoài văn bản hay thắc mắc, yêu cầu giải đáp về tác giả, tác phẩm. Câu hỏi đă ít lại chưa hệ thống, phong phú, đa dạng và có chủ đích, chuẩn bị công phu như cách dạy đọc hiểu ở ta những năm gần đây. Thường các thầy hỏi khá tùy hứng. Thích hỏi thì hỏi; thấy cần hỏi thì nêu câu hỏi. Học sinh trả lời được thì tốt, ấp úng, hoặc ngậm hột thị cũng chẳng sao! Bởi lúc đó thầy lại tự trả lời đủ đầy, cặn kẽ. Nguyên nhân chính vì quan niệm dạy văn là giảng văn. Cần tranh thủ thời gian giảng giải cho HS biết bao nhiêu cái hay, đẹp, sâu sắc đang ẩn chứa trong áng văn mà các em không thể tự mình khám phá nổi. Các thầy đều mắc căn bệnh kinh niên: tham kiến thức, sợ lãng phí thời gian…
    Tuy nhiên thưở ấy, chúng tôi nhiều khi cũng đă từng rất hứng thú trước một số câu hỏi gợi mở của các thầy. Đánh liều thử xung phong trả lời. Lót đót cũng có lần nói đúng, nhiều hơn là lệch, ngô nghê hoặc sai. Có khi thầy hỏi vặn thêm, đành đỏ mặt, ngồi xuống. Các bạn cười, thầy cũng cười, rồi lại khen, lại động viên. Chẳng hạn, khi dạy bài Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ, thầy Trần chợt buông câu hỏi:
       - Có người bảo rằng bài thơ này rất ít chất thơ, không cô đọng, kể cả một câu chuyện đơn giản, lặp lại diễn biến…như một bài văn xuôi kể chuyện. Em nghĩ thế nào?
       Cả lớp ngây ra, lặng ngắt hồi lâu… Bỗng BH láu táu xung phong phát biểu. Ý kiến của cô bạn học giỏi văn nhất lớp làm chúng tôi giật ḿình, hoang mang: - Em nghĩ ýkiến đó sai ạ! – V́ì sao? Thầy khuyến khích. – Em đọc thấy rất hay, cảm động và thương Bác Hồ ạ! – Nhưng sự dài và câu chuyện kể trong bài thơ, rõ ràng làm giảm chất thơ th́ì sao? - Em không giải thích được nhưng vẫn thấy hay ạ! Thầy cười, quay sang hỏi cả lớp: - Ai đồng ý với bạn? Ai phản đối? Mấy cánh tay cả nam, cả nữ cùng giơ cao. Thầy chỉ định 1, 2 bạn nói tiếp. Đứa đồng t́ình, đứa phản bác; đứa có lẽ, đứa cãi cùn, ồn ào một hồi. Cuối cùng, thầy mới phân giải, kết luận chỉ ra chỗ hời hợt của nhận xét; khẳng định giá trị của bài thơ tự sự. Và chúng tôi được dịp hiểu thêm một khái niệm lý luận mới và khó: thơ tự sự. Chúng tôi rất khoái được học kiểu như thế. Tiếc thay, những tiết giảng văn được gợi mở, hỏi đáp, thảo luận, định hướng hiếm hoi tựa lá mùa thu!.
        Thầy Nguyễn hay hỏi những câu, đại khái: - Anh (chị) thấy bài (đoạn, câu) này thế nào? Có hay không? Có thích không? Có thể nói với thầy và các bạn cái hay, cái đẹp ấy chăng? Anh (chị) nghĩ ǵì khi đọc?... những câu hỏi rất thú vị nhưng thật khó trả lời. Sau này tôi mới hiểu đó là những câu hỏi kích thích tư duy sáng tạo, khêu gợi cảm xúc của bạn đọc học sinh khi tiếp xúc văn bản nghệ thuật ngôn từ. Khi chúng tôi đứng dậy trả lời, bao giờ thầy cũng lắng nghe, hầu như không ngắt giữa chừng. Dù đúng, dù chưa đúng, thầy đều mỉm cười khích lệ bằng những câu ngắn gọn: - Được đấy! Tiếp đi! Phải! Tốt, tốt lắm! Đúng rồi! Đã hiểu khá sâu! Nghĩ thêm chút nữa!! Chứng minh đi! Nói thế là oan cho Kiều đấy!... Hoặc hỏi như khiêu khích cả lớp: - Ai có gan tranh luận lại? Chẳng lẽ chỉ có thế thôi?... Thầy nhận xét, b́ình luận ý kiến của học sinh, khen rất hào phóng, chê cũng không ít, lời chê dí dỏm, nhẹ nhàng, đầy bao dung, khiến chúng tôi chỉ xấu hổ một chút chứ không hề tự ái hoặc cảm thấy bị coi thường, xúc phạm. Và thầy nối mạch giảng tiếp tự lúc nào, khéo léo đến ngạc nhiên. Rất nhiều năm dạy Văn, tôi vẫn thường học các thầy bài học đặt câu hỏi và gợi mở học sinh, sinh viên trả lời nhưng vẫn không sao khắc phục được tật nôn nóng, sốt ruột, thiếu kiên nhẫn lắng nghe, đôi khi lại chưa nhẹ nhàng, tế nhị khi phê phán, phẩm b́ình ý kiến của các em. Tôi vẫn đă và đang gắng học các thầy dạy văn của tôi xưa câu châm ngôn về PP: Biết dạy là biết hỏi. Đặt câu hỏi gợi mở trong dạy học Ngữ văn cũng là một nghệ thuật. Nhưng cho đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa thực hành nổi thái độ dạy học mới mẻ, dứt khoát của đại Khổng Tử: Ta chỉ dạy khi nào học trò hỏi mà thôi!

      3. Giảng b́ình

    Thầy Trần, thầy Trịnh giảng nhiều, b́ình ít. Lời giảng thường cặn kẽ, giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng tường tận; có khi lại đưa thêm ví dụ minh họa, mở rộng chú thích SGK, nhưng thường chung chung, đôi lần không tránh khỏi sáo, hoặc đại ngôn. Thầy Lê, ngược lại, giảng ít, b́ình nhiều. Lời b́ình của thầy có đoạn bay bổng, chơi vơi như làn sương hồng mong manh, huyền ảo vờn chung quanh áng văn. Thầy Nguyễn giảng b́ình tương đối cân phân. Lúc giảng trước b́ình sau, lúc giảng sau b́ình trước, lúc lại vừa giảng vừa b́ình, khá linh hoạt. Nhưng thầy thiên về khám phá nội dung tư tưởng, xă hội mà chưa để tâm đúng mức đến vẻ đẹp độc đáo, cụ thể về nghệ thuật của tác giả, tác phẩm, nhất là với một số tác phẩm mới đưa vào trong tập Phụ lục (Lên miền Tây (Bùi Minh Quốc), Cô gái Hưng Yên đi khai hoang Tây Bắc (Huy Cận), Hai con trâu húc nhau (trích Vụ lúa chiêm (Đào Vũ)… Khi nói, khi đọc; lúc cao hứng kết hợp cử chỉ, điệu bộ bàn tay, với ánh mắt, nụ cười… Đoạn trích Tức nước vỡ bờ (Tắt đèn – Ngô Tất Tố) được thầy phân tích đầy hào hứng. Vừa giảng các từ cai lệ, lư trưởng, tay thước, xái cũ… thầy vừa đọc diễn cảm đoạn văn, nhấn giọng từng câu đối thoại đầy kịch tính của chị Dậu với hai hung thần ác sát rồi so sánh từng hành động thể hiện tính cách  của 2 nhân vật  tương phản trong cảm quan hiện thực mạnh mẽ của Ngô Tất Tố.  Thay lời sơ kết, thầy đọc diễn cảm đoạn phẩm b́ình đặc sắc về chị Dậu và Tắt đèn của Nguyễn Tuân. Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đă xui người nông dân nổi loạn… lần đầu tiên được nghe, chúng tôi sửng sốt, ngạc nhiên và rất xúc động.
    Tôi không thể nào quên một buổi tối thứ năm nào đó, lũ học tṛ lớp 7 chúng tôi được nghe thầy Ngô Quang (đă từ trần) giảng bài thơ Mẹ Tơm (Tố Hữu) cho học viên lớp 7 Bổ túc văn hóa miền Vẽ – Trèm. Bám hờ thành cửa sổ gỗ lim mở rộng, chúng tôi nh́ìn vào, thấy độ hơn ba chục anh, chị học buổi tối đang hếch mặt, dỏng tai đón từng lời giảng say sưa, cuốn hút; theo bàn tay viết bảng thoăn thoắt, lại chuyển đọc diễn cảm –như ngâm:
Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa,
Một buổi trưa nắng dài băi cát.
Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa,
Mát rượi ḷòng ta, ngân nga tiếng hát…
    Thầy dẫn lời Tố Hữu phân vân lựa chọn giữa 2 từ  lao xao và xôn xao.
    Đến đoạn cuối, thầy nghiêm trang, thành kính đọc:
Sống trong cát, chết vùi trong cát
Những trái tim như ngọc sáng ngời…
    Rồi trích lời b́ình sắc sảo của Hoài Thanh, tấm tắc: Từ vùi trong câu thứ ba gợi nhớ câu Kinh Thánh: Thân cát bụi lại trở về nơi cát bụi. Nhưng với câu thơ tiếp theo, có bàn tay rất khỏe của nhà thơ đă giữ tôi (HT) đứng vững bên bờ vực thẳm…
    Cả lớp và nhóm nghe ké lặng phắc như bị thôi miên rồi đột ngột cùng ̣a vỗ tay ran như pháo. Riêng tôi thầm ao ước, nhất định có ngày ḿình cũng sẽ lên bục, giảng b́ình thơ văn như thầy.
                                                                   ***
    Dự giờ nhiều anh chị em giáo viên trẻ hiện nay, thấy một vấn đề ngộ nhận và rất cần thức nhận lại. Đó là việc vận dụng sáng tạo PP giảng b́ình trong tiết đọc hiểu tác phẩm văn chương ở THCS. Không ít thầy cô giáo trẻ sợ, ngại giảng b́ình, ngộ nhận về PPDH Văn truyền thống đặc thù rất phương đông này nên đã tự  làm giảm hiệu quả nhận thức và xúc cảm của HS trong tiết đọc hiểu văn chương. Tất nhiên, ở thế kỷ 21, chúng ta không thể giảng b́ình hoàn toàn như các thầy cô dạy Văn thế kỷ trước. Phải và cần đổi mới, làm mới giảng b́ình trên nguyên tắc dạy học tích hợp – tích cực, lấy HS là trung tâm, là bạn đọc sáng tạo, đồng sáng tạo .
    Chuyên cần nghiền ngẫm kinh nghiệm, tinh hoa chuyên môn, nghiệp vụ dạy Ngữ văn nơi các thế hệ thầy cô xưakết hợp với các PP, phương tiện DH văn hiện đại, góp phần nâng cao chất lượng học môn Ngữ Văn của HS hiện tại,; chẳng phải là một cách làm thiết thực tỏ ḷòng biết ơn các bậc sư phụ tiền bối của chúng ta hay sao?./.
                        
16 - 12 - 2013                    
Đường Văn