Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Xung quanh câu chuyện tác phẩm đỉnh cao

Lại Nguyên Ân trả lời PV báo Đại Đoàm kết
Thứ ba ngày 3 tháng 12 năm 2013 5:53 AM

LẠI NGUYÊN ÂN trả lời phóng viên báo Đại Đoàn Kết


13h06 ngày 28/11/2013, phóng viên NGUYỄN THANH BÌNH của báo ĐẠI ĐOÀN KẾT gửi qua thư điện tử các câu hỏi phỏng vấn xung quanh vấn đề làm gì để có những tác phẩm đỉnh cao. 18h07 cùng ngày, tôi gửi lại phóng viên bài trả lời. Toàn bài như sau.

A/ Các câu hỏi 1&2:
1. Thưa, ông là một nhà nghiên cứu phê bình văn học lâu năm, thế nào là một “tác phẩm nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao”?
2.Vậy ông có cho rằng nền văn học nghệ thuật hiện nay vẫn đang thiếu vắng những tác phẩm đỉnh cao không?


LẠI NGUYÊN ÂN trả lời:
    Thông thường, người ta chỉ có khái niệm tác phẩm có giá trị; mức độ giá trị có thể là xuất sắc, có thể là kiệt tác; ở kiệt tác có tất cả, tư tưởng cao, nghệ thuật cao. Còn khái niệm “tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao” là khái niệm mang tính song đề, tự phía chủ quan những người đề ra khái niệm ấy có thể đã và sẽ phải tự cãi vã bất phân thắng bại giữa hai thuộc tính “giá trị tư tưởng” và “giá trị nghệ thuật”.

 Theo tôi, ở những xã hội khôn ngoan người ta có những lối đo đạc khá tinh ranh – chấp nhận độ “tương đối” rất rộng về giá trị – đối với các tác phẩm, từ lúc mới xuất hiện đến suốt về sau. Người ta có thể chấp nhận nhiều phép thử, nhiều kiểu vinh danh đối với các tác phẩm ấy, như các thứ giải thưởng khác nhau, của những tổ chức khác nhau, từ những giám khảo quần chúng đến những giám khảo chuyên gia; lại thêm những thước đo như số lần và số bản in, số bản dịch, số ngôn ngữ được dịch, phạm vi ảnh hưởng, v.v… Rồi thì qua thời gian, tính bằng trăm năm, những tuổi tên lớn, tác phẩm lớn sẽ lộ ra dần dần; nhưng ngay khi đã lộ rõ phẩm chất của kiệt tác, nó có thể vẫn bị những bộ phận công chúng hay chuyên gia nhất định chê bôi, cho là thiếu toàn bích… Như bộ truyện Đi tìm thời gian đã mất của văn hào Pháp Marcel Proust là trường hợp mới đây thường được nhắc đến, nhân 100 từ lúc xuất bản tập sách đầu tiên (1913), chẳng hạn.
 
Cách làm “tương đối” nói trên rất khác với những lối làm in rõ dấu ấn duy ý chí, lấy thước đo của những giới hẹp trong thời gian ngắn nào đó để xác quyết tác phẩm thế này thế kia là “có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao”; kết quả của lối làm này chỉ xác nhận tầm hữu hạn nhất thời của những thị hiếu, những thiện cảm, những định kiến, chứ không tiên lượng được sức sống của tác phẩm trong chiều dài lịch sử của nhiều không gian sống, nhiều đời người.

Thế thì hiện tại ở văn nghệ Việt Nam có đang thiếu vắng những tác phẩm đỉnh cao không? Câu trả lời của tôi là có và không! Bởi tác phẩm đỉnh cao (xuất sắc, kiệt tác) là kết quả lựa chọn, lắng đọng của thời gian hàng trăm năm, chứ không phải kết quả sự bầu chọn ngay tức khắc. Ta chưa thể biết trong vô số tác phẩm văn nghệ xuất hiện trong vòng dăm chục năm nay của các tác giả Việt Nam có hay không có những kiệt tác!

Ta đang sống ở thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, ai nấy đều thấy rõ, chỉ trong vòng vài chục năm trở lại đây, chúng ta mới xác nhận được một vài kiệt tác văn học người Việt thế kỷ XX, ví dụ về văn xuôi thể truyện, là Số Đỏ (1936, truyện dài của Vũ Trọng Phụng) và Chí Phèo (1941, truyện ngắn của Nam Cao). Vậy là từ sau khi các tác phẩm này xuất hiện, phải mất chừng 50 - 60 năm, giá trị đỉnh cao của chúng mới được xác nhận. Thế thì làm sao ta đã có thể nhận định về tầm giá trị những tác phẩm xuất hiện gần ta hơn?         

B/ Các câu hỏi 3&4&5:
3. Nếu có, thì theo ông, đâu là những nguyên nhân?
4. Có ý kiến cho rằng, một nguyên nhân khá quan trọng, đó chính là vai trò của các nhà phê bình. Một nền phê bình ngại va chạm, thiếu sự dấn thân, một nền phê bình “bốc thơm”, thì không phải là môi trường để nảy sinh các tác phẩm đỉnh cao. Ý kiến của ông thế nào?
5. Thế còn nguyên nhân là các chế độ đãi ngộ văn nghệ sĩ, nhiều người cũng cho đó là nguyên nhân dẫn đến việc chưa có tác phẩm hay. Nhưng ngày xưa, nào có chế độ đãi ngộ gì mà chúng ta vẫn có Truyện Kiều?

LẠI NGUYÊN ÂN trả lời:
    Nếu chưa thể xác quyết trong văn nghệ (hoặc hẹp hơn: văn học) của ta vài ba chục năm gần đây có hay không có những tác phẩm đỉnh cao, thì, về nguyên tắc, càng chưa thể bàn đến nguyên nhân. Song ở đây, nhân câu hỏi của bạn, cũng có thể bàn đến sự ảnh hưởng thuận lợi hay không đến sự sáng tạo của văn nghệ sĩ, từ phía hoạt động phê bình, và từ phía chế độ đãi ngộ.
    Theo tôi, trong đời sống gần đây, hoạt động phê bình trên báo chí vừa có phần đáng ngại, lại vừa có chỗ khả thủ.

Điều khả thủ là ở khu vực hẹp của giới phê bình nghiên cứu “hàn lâm”, ở đó những nền nếp ít nhiều bài bản đang được xác lập trở lại; nét đáng khích lệ nhất là khu vực này đang thấy rõ nỗ lực tiếp cận các chuẩn thế giới, nhưng tiếc là chính nó lại ít tác động được đến đời sống văn nghệ trong nước.

Điều đáng ngại là ở khu vực phê bình văn nghệ trên báo chí, ở đó những bài điểm tác phẩm, điểm vở diễn, giới thiệu nghệ sĩ, v.v… đang xoay theo phục vụ các nhóm lợi ích lớn hoặc nhỏ, thay vì phải xét đoán khách quan, nhân danh các chuẩn mực cao nhất về giá trị. Xu thế này khiến phê bình đánh mất sự tin cậy của công chúng. Nhưng tình trạng này lại chỉ nên xem là kết quả sự lan tràn tình trạng bất công, bất bình đẳng đang xảy ra ở xã hội ta, sau một quá trình phát triển kinh tế xã hội, khi nhiều loại “luật rừng” đã trở lại trong sự cạnh tranh; từ lợi ích kinh tế, những cạnh tranh rừng rú cũng đang chi phối sự phát triển không ít loại hình văn nghệ.
 
    Chế độ đãi ngộ cũng đang rất có vấn đề, khi mà mặt bằng để định giá thù lao, nhuận bút đã khá lạc hậu so với thực tế; trong khi đó, những quy phạm pháp luật để quản lý các loại hình hoạt động văn nghệ (như xung quanh việc bảo vệ tác quyền) và bộ máy thực thi chúng đều còn quá nhiều khiếm khuyết, lạc hậu. Chúng ta duy trì quá lâu các hệ thống hội đoàn văn nghệ có từ thời bao cấp, vốn nặng tính hành chính, không khuyến khích sự sáng tạo và người sáng tạo; cho đến nay, những ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống hội đoàn bao cấp – mang nặng tính chất nhà nước hóa và tính độc quyền – thậm chí vẫn còn chưa được nhận rõ để vượt qua. Sau những năm dài bao cấp, một thị trường nghệ thuật chỉ mới vừa hình thành ở một vài ngành, trong từng công đoạn, lại bị méo mó do những ảnh hưởng kiểu nhóm lợi ích, đan chéo với những hệ lụy bao cấp chưa được khắc phục, – đó, theo tôi là những rào cản cho sự phát triển nghệ thuật, cho sáng tạo văn nghệ hiện nay.   
    
    Nếu nói đến Truyện Kiều thì cần nhận rằng tác phẩm ấy là sản phẩm của một thời đại khác. Khi khác sẽ nên bàn về đề tài ấy.  
    Bây giờ ta nên bàn về chính chuyện bây giờ.
Cho tôi hỏi bạn: nếu ta đã có những tác phẩm đỉnh cao rồi nhưng chính chúng ta lại chưa thừa nhận thì sao?
Tôi nên hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất. Năm 1990 xuất hiện tiểu thuyết Thân phận tình yêu (tức Nỗi buồn chiến tranh) của Bảo Ninh, ngay sau đó giá trị của tác phẩm này được xác nhận bằng giải thưởng chính thức của Hội nhà văn Việt Nam. Thế nhưng cũng chỉ sau đó ít lâu, cuốn truyện này trở thành đề tài phê phán của nhiều tờ báo quyền uy, đến nỗi một số thành viên từng bỏ phiếu trao giải cho nó cũng quay ra mạt sát giá trị của nó. Và từ đó nó hầu như bị cấm tái bản (tất nhiên là ngấm ngầm). Nhưng rồi cuốn truyện được dịch in ở nhiều nước Âu Mỹ, được dư luận nước ngoài khen ngợi. Trong “thế giới phẳng” này, tiếng khen ấy rồi cũng lọt lên báo chí trong nước, từ chỗ khẽ khàng đến chỗ công nhiên. Đến năm 2005, sách lại được in trong nước, và từ đó được tái bản không ít lần. Tuy vậy, có thể nói, chưa bao giờ dư luận chính thống tỏ rõ sự thừa nhận sòng phẳng giá trị tác phẩm này, nhất là phương diện gọi là “nội dung tư tưởng” của nó. Đây có thể gọi là tác phẩm mà dư luận chính thống ở ta vẫn chưa thể “tiêu hóa” được. Đây có phải một kiệt tác không? Rõ ràng đây là tác phẩm xuất sắc, xuất chúng, nhưng có là kiệt tác không, thì còn chờ thời gian.

 Từ trường hợp này suy ra, phải chăng, ở ta, tác phẩm sẽ có thể trở nên lớn hay không, trước tiên phải xem nó có từng bị dư luận chính thống không chịu đựng nổi hay không? Nói khác đi, dư luận chính thống không chịu đựng nổi – đó phải chăng là điều kiện cần của tác phẩm lớn?

Trường hợp thứ hai. Cuốn Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn. Được in ra năm 2000, nó lập tức bị cấm. Bộ trưởng văn hóa khi ấy, ông Nguyễn Khoa Điềm, đã ra quyết định hủy toàn bộ số sách đã in. Nhưng trong xã hội, cái gì bị cấm thường được người ta tìm kiếm, do vậy công chúng vẫn biết đến nó, vẫn đọc được nó. Rồi cuốn truyện được in ở nước ngoài, gần đây được dịch ở Pháp. Và ngay từ khi xuất hiện, tác phẩm này luôn được đánh giá cao; người ta so đọ, trong những hoàn cảnh tương tự nhau, nếu ở Nga có GULAG thì Việt Nam có Chuyện kể năm 2000. Tất nhiên cho đến nay, cuốn truyện vẫn chưa được in lại và lưu hành ở trong nước. Song, giá trị của nó thì đang được xác nhận; thậm chí lịch sử càng lùi xa thì giá trị ghi nhận thời đại của nó càng được xác nhận.

Từ trường hợp này suy ra, phải chăng ở ta, tác phẩm sẽ có thể trở nên lớn hay không, trước tiên phải xem nó có bị xã hội chính thống loại trừ hay không? Một thứ điều kiện cần, nhưng có thể vẫn chưa đủ?  


C/ Câu hỏi 6:
6. Phải chăng chúng ta thiếu vắng tài năng, thưa ông? Hay chúng ta thiếu cơ chế đầu tư phát triển và giữ chân tài năng thưa ông?

LẠI NGUYÊN ÂN trả lời:
    Tôi không nghĩ là chúng ta thiếu tài năng. Tôi nghiệm ra rằng, các thế hệ người Việt, thế hệ nào cũng sẽ làm nên thành tựu của mình.
 
Tất nhiên mức độ đóng góp của mỗi thế hệ vào sự phát triển từng lĩnh vực văn hóa xã hội của đất nước là khác nhau. Thế hệ ra đời cách nay chừng 100 năm, do tiếp nhận một thay đổi căn bản về hệ hình văn hóa, đã làm nên một thời đại mới trong văn học Việt Nam, với thơ mới, kịch nói, văn tiểu thuyết và văn bình luận, đưa văn nghệ Việt Nam vào thời hiện đại.

Cũng có thế hệ chịu thiệt thòi, như thế hệ tôi, ra đời cách nay trên 60 năm, gần như bị méo mó và bần cùng hóa về nguồn tri thức xã hội nhân văn, nên sự đóng góp rõ ràng là bị hạn chế, tuy cũng có những đại diện của mình trong sáng tạo văn nghệ.

Còn các thế hệ ra đời trong vòng vài ba chục năm nay, họ đã có điều kiện mở rộng tầm hiểu biết, sự xúc tiếp rộng hơn hẳn. Tôi không tin là sức sáng tạo của họ không dồi dào.

Còn về sự đầu tư, thì tôi nghĩ cũng có vấn đề, liên quan đến hệ thống hội đoàn văn nghệ mang nặng tính chất nhà nước hóa và tính độc quyền kể trên. Trong khi đó, sự đầu tư lớn nhất, đáng mong muốn nhất, theo tôi là ở việc tạo ra môi trường xã hội dân chủ rộng rãi, vì đó mới là điều kiện đích thực của tự do sáng tác. Văn nghệ sĩ là con người sống giữa xã hội. Chỉ khi điều kiện xã hội hoàn toàn tự do để anh ta có thể công bố tất cả những gì mình sáng tác ra mà không ngại bất cứ sự cấm đoán hay trừng phạt nào, thì đó mới là sự đầu tư lớn nhất.       
 
D/ Câu hỏi 7:
7. Trong một lần trò chuyện với chúng tôi, GS Phong Lê có nói đại ý rằng, ông không nhìn thấy “tín hiệu” gì nữa từ những nhà văn đương thời. Cõ lẽ phải chờ mươi, thậm chí vài chục năm nữa, may ra… Còn nhà phê bình Lại Nguyên Ân thì có bi quan như vậy không?
LẠI NGUYÊN ÂN trả lời:
Tôi không bi quan về thế hệ đang bước vào tuổi sáng tác sung sức.


E/ Câu hỏi 8:
8. Một cách ngắn gọn nhất, thưa ông, chúng ta cần làm gì để chúng ta có những tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao?

LẠI NGUYÊN ÂN trả lời:
    Để ta có những tác phẩm đỉnh cao, chúng ta cần tạo ra một xã hội dân chủ, đảm bảo hoàn toàn việc tự do sáng tác và công bố tác phẩm. Hãy tin rằng: những tác phẩm kém cỏi sẽ nhanh chóng bị thời gian loại bỏ, chẳng cần mất công sức cấm đoán; còn những tác phẩm có giá trị thì sẽ luôn luôn có khả năng trở về với xã hội với con người, dù có bị ngăn trở ra sao./.