Đọc tập thơ: “Chiều mưa hai đứa đợi tàu” của nhà thơ
Nguyễn Hưng Hải, NXB Quân đội Nhân dân năm 2013, người đọc đi hết từ bất ngờ
này đến bất ngờ khác. Cả đời theo nghiệp thơ có được một vài bài hay, câu hay
đã quí lắm rồi, còn với Hưng Hải nhiều bài anh
có những phát hiện mới, có những câu thơ hay.
Cái đáng quí
trong thơ anh là sự nhạy bén và tinh tế trong lập tứ lập ngôn, thâm trầm và sâu
sắc, chạm vào bất cứ những gì hiện diện trong cuộc sống và tâm tư, tình cảm là
trong anh bật lên những tứ thơ được diễn tả một cách tự nhiên như hơi thở. Những
thủ pháp nghệ thuật được sử dụng nhuần nhuyễn làm rung lên trong lòng người đọc
những cung bậc của cảm xúc. Đây là tâm trạng bồn chồn, lưu luyến của người tiễn,
người đi trong: “Chiều mưa hai đứa đợi
tàu”: “Chiều mưa hai đứa đợi tàu? Lát
rồi xa lại bắt đầu hình dung/ Sao em cứ nghĩ mông lung/ Muốn tàu đến sớm lại mong muộn tàu”.
Thật là nghịch lý, thật là trớ trêu nhưng lại thật là hợp lý, cái ảo và cái thực
đan xem mang âm hưởng dân gian. Hoặc khi “Trở
lại Trường Sơn” những ký ức năm xưa chợt ùa về: “Phiến đá này năm xưa/ Chân ai từng tụt dép/ Có những cơn sốt rét/ Đến
giờ còn rung cây/ ... Một Trường Sơn tơ non/ Đón tôi vào vô tận/ Đường tôi đi
ra trận/ Lại bắt đầu từ đây...”.
Trong bài: “Cỏ mùa xuân”, Nguyễn
Hưng Hải thấy cỏ cũng có cuộc sống như con người: “Chung buồn vui với khổ đau/ Tháng năm cỏ dựa vào nhau như người/ Nhỏ
nhoi một lá cỏ thôi/ Mà bao nhiêu những cuộc đời gặp nhau”. Tứ thơ được đẩy
lên một cung bậc mới bất ngờ: “Đất đai
còn một vết đau/ Thì tôi còn mắc nợ màu cỏ xanh/ Cỏ và cột mốc và anh/ Ôm ghì lấy
đất mà thành nước non”. Thì ra nói về kỷ niệm chiến trường xưa, nói về cỏ,
nói với cỏ mà nhà thơ đã: “Buộc lòng tôi
với tiền duyên/ Buộc lòng tôi với mọi miền đất đai”. Có một chút lãng mạn
nhưng hình ảnh nghệ thuật ấy thật sâu sắc, nỗi gian truân, vất vả, khó nhọc của
những người lính Trường Sơn năm xưa hiện lên chân thực, cụ thể và sinh động, ý
thức công dân vô cùng đáng trân trọng, đặc biệt khi anh hiểu rõ: “Cỏ và cột mốc và anh/ Ôm ghì lấy đất mà
thành nước non”. Và đáng quí thay người lính đã đi qua chiến tranh ý thức
được rất rõ trận chiến mới không tiếng súng nhưng không kém phần cam go, khốc
liệt. Những năm tháng chiến tranh để lại những dấu ấn khó phai trong thơ Nguyễn
Hưng Hải, trong đêm: “Ngủ rừng” anh
thấy: “Đêm đón trái trăng vàng/ Đung đưa
qua kẽ lá/ Ngỡ quả thị của bà/ Hương thơm tràn mọi ngả/ Đêm nhìn lên vách đá/ Vệt
lân tinh lập lòe/ Thương ngọn đèn xóm mẹ/ Giờ này còn đỏ hoe”. Quê hương
luôn đồng hành cùng người ra trận và chính tình yêu quê hương qua những điều thật
cụ thể ấy, tiếp sức cho các anh chiến đấu và chiến thắng, hình ảnh vầng trăng như
quả thịtrong cổ tích hiện lên đầy chất
thơ nhưng cũng thật gần gũi, thân thương.
Còn đây là: “Tháng ba ở rừng” người
lính ước ao: “Ước gì gặp lại bàn tay/ Tìm
xem vết mực cái ngày xa nhau/ Ước gì gặp lại mái đầu/ Đêm khuya bên ngọn đèn dầu
đỏ hoe/... Ai đem áo vắt lên dây/ Để cho
ngọn gió cả ngày đong đưa/ Ai mang đến những tâm tư/ Để khi xa cách vẫn như ở gần/
Lạnh lùng cái rét nàng Bân/ Chẳng còn lạnh đến hai lần trong em/ Tôi xin làm một
con tem/ Mang bao nhiêu nỗi ấm êm trở về”. Câu thơ nhẹ như không mà chan chứa
ân tình. Chiến tranh làm sao tránh được
những tổn thất thương đau không gì đo đếm được, hình ảnh người liệt sĩ hy sinh
mãi trẻ “Ở trong khung kính” làm người
đọc nghẹn lòng: “Em như chiếc lá khô/ Trước
muôn năm anh vẫn trẻ/ Cơn bão của em/ Thằng con trai của mẹ/ Đã không thể bước
ra cuộc đời”. Người vợ mỏi mòn theo năm tháng, cùng mẹ chung một nỗi đau
trong những cung bậc cảm xúc khác nhau, câu thơ như cứa vào lòng: “Trong khung kính anh cười/ Liệu có biết em
đang ngồi chải tuổi/ Trên chiếc chiếu manh”, còn người mẹ: “Mẹ còm cõi nắng chiều nhợt nhạt/ Tóc mẹ trắng
rụng vào đêm bạc/... Nhưng mẹ chẳng thể nào thay anh cho em/ Em chẳng thể nào
thay anh cho mẹ”. Từ “chải tuổi”
và hình ảnh “Tóc mẹ trắng rụng vào đêm bạc” thật là đắc địa. Chiến tranh đã đi qua nhưng
những gì nó để lại thật khốc liệt không phai thể mờ trong bài: “Nhìn về năm ngọn tháp” : “Cái chết đã đi qua/ Đêm nay còn giật thót/
... Chiều đứt đôi tiếng hót/ Con chim rơi khỏi cành/ Đỡ lên niềm xa xót/ Máu
chim như máu mình”. Hiểu về chiến tranh và cái giá của những gì đã có hôm
nay, cùng sự mẫn cảm của một hồn thơ mới có thể viết được những câu thơ như vậy.
Không chỉ với nhà thơ Nguyễn Hưng Hải, kỷ niệm chiến trường với những người
lính không bao giờ phai mờ được thể hiện sinh động, đằm lắng trong bài: “Phơi áo”: “Ướt đâu mà áo mang phơi/ Phơi là phơi lại cái thời Trường Sơn/ Phơi là
phơi nỗi cô đơn/ Bao năm ai mất ai còn ở đâu”. Hình tượng thơ gợi bao hoài
niệm, nhớ lại kỷ niệm chiến trường năm xưa cùng bao đồng đội đã ngã xuống đâu
phải để buồn đau, mà hơn thế để sống sao cho xứng với máu xương của bao người con
đất Việt ưu tú đã xây nên Tổ quốc này: “Phơi
là để nhớ ngày xưa/ Để không quên những giao thừa bom rung/ Để còn thương nhớ
sau lưng/ Để mai còn biết thẹn thùng ở đâu/ Để còn nhắc với muôn sau/ Áo Trường
Sơn dẫu bạc màu vẫn phơi”. Từ “phơi”,
từ “để” được nhắc lại nhiều lần càng
khắc sâu kỷ niệm xưa và như một lời nhắc nhở tới hôm nay và mai sau, như nhịp cầu
nối liền quá khứ, hiện tại và tương lai.
Trong tập thơ, những bài thơ viết về Trường Sa của Nguyễn Hưng Hải mang
những phát hiện mới, thông qua những điều tưởng như nhỏ bé, bình dị, chuyển tải
được những ý tưởng to lớn về quê hương đất nước và tinh thần bất khuất của những
người lính nơi đầu sóng ngọn gió như bài: “Rau
muống ở Trường Sa”: “Như là đồng đội
thương nhau/ Ở trong khay đất ngọn rau chẳng buồn/ Lá mầm theo nắng mà vươn/ “Theo
chân lính - những mảnh vườn cứ xanh”. Hưng Hải rất thành công khi chọn hình
ảnh rau muống đại diện cho mảnh vườn quê Việt, bởi dù đi đâu, ở đâu thì: “Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống
nhớ cà dầm tương” – (Ca dao). Mỗi ngọn rau cũng chứa bao tâm sự, quê hương
thấp thoáng trong mỗi mảnh vườn xanh. Tổ quốc hiện hữu thật gần, giản dị và rất
tự nhiên. Bài: “Lính đảo”, hình ảnh
những người lính trung kiên, ngày đêm bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương thật
độc đáo mang tinh thần “Quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”: “Bão xoay cột mốc
chủ quyền/ Mỗi người lính một mặt tiền chở che/ Đảo là nhà, đảo là quê/ Đảo là
giọt máu lời thề trong tim”. Còn trong bài: “Nghe hát dân ca trên đảo Sinh Tồn” lại đầy sự tinh nghịch, hóm hỉnh
của lính: “Chỉ nhìn đôi mắt long lanh/
Nghe câu em hát đã thành trai tân/ Ghen cho thằng bạn ngồi gần/ Bao giờ đến hẹn,
còn lần sau không?” và thật bất ngờ khi gặp hình ảnh: “Có chàng lính trẻ thích đùa/ Nghe em hát cứ mong mưa để còn.../ Cởi
phăng tấm áo đã sờn/ Che cho cả đảo Sinh Tồn và em”, bốc một chút nhưng thế
mới là lính.
Trân quí cuộc sống
hôm nay có được do bao mồ hôi, xương máu của bao thế hệ mới có, nên có lúc
trong thơ Nguyễn Hưng Hải đầy chất suy tư, thế sự: “Vệ sĩ đứng ngàn năm/ Cho tôi hỏi lối nào vào cổng chính/ Ai nói thật
và ai đang phỉnh nịnh/ Bước lên đền chỉ để bước lên thôi/ ... Vệ sĩ có ghi tên
điểm mặt từng người/ Có nghe được bao lời cầu khẩn/ Có chỉ mặt lôi ra ngoài
cung cấm/ Những kẻ xoay lưng lại cửa đền”. Câu hỏi như xoáy vào tâm can, đặt
ra bao điều về đạo lý và lẽ sống.
Thơ của Nguyễn
Hưng Hải trong sáng, mượt mà, ở cả thể thơ tự do và thể thơ truyền thống anh đều
gặt hái được những thành công nhất định. Trong thơ của anh đầy màu sắc, âm
thanh, nhạc điệu và những hình ảnh mới lạ, không gò ép trong không gian và thời
gian nhất định, kết hợp khá nhuyễn chất trữ tình và tự sự làm cho ý thơ bay bổng
dư ba, song có lúc giá như anh điều tiết được được cảm xúc thì ý thơ sẽ cô đọng
hơn nữa.
Hà Nội 7.2013
Trần Vân Hạc