Trang chủ » Tản văn

NHỚ… TRE

Thanh Ứng
Thứ ba ngày 4 tháng 10 năm 2011 8:50 PM

Ngày xưa, làng tôi nhiều tre lắm. Tre mọc từng bụi bên đường, tre mọc    trong vườn, tre mọc chung quanh bờ ao, nhà ai mà chẳng có một hai bụi tre. Mùa đông, có bụi tre chắn gió làm con người bớt lạnh lẽo. Áo mặc đơn sơ vẫn thấy ấm lòng. Mùa hè, trời nắng chang chang, tre ngả bóng, che rợp đường làng. Cũng là bóng mát, bóng mát của tre êm ả dịu ngọt làm sao! Cùng với bóng mát là tiếng “lích chích” của những chú chim sâu chuyền cành, tiếng “chẹc chẹc” của đôi chim sẻ đùa nhau, thỉnh thoảng lại bất ngờ lảnh lên tiếng hót cao và trong của một chú sáo như muốn làm xáo động không gian của trưa hè yên tĩnh…Thoảng trong làn gió mát ngọt ngào là hương dìu dịu của hoa tre. Ít người để ít đến hoa tre. Đó là những chùm hoa nhỏ, màu trắng ngà ẩn hiện kín đáo trong màu xanh mượt của những lùm lá tre và những cành tre, tay tre đan cài ngang dọc. Một trưa hè tĩnh lặng, đi trên đoạn đường làng, bất ngờ nhận ra có một mùi thơm. Đó là hương của tre. Thoang thoảng, dìu dịu mà mê mẩn cả hồn người. Thiên nhiên thôn dã âm thầm ban tặng chút quà quê cho người. Con người dừng chân ngước lên vòm lá xanh mướt, nhận ra những chùm hoa tre khiêm nhường ẩn hiện mà tự thưởng giây phút thư nhàn hiếm có của một ngày cày cuốc.
Trong chín năm đánh Pháp, làng tôi là một làng kháng chiến. Cùng với súng trường, giáo mác, bàn chông… tre đã cùng du kích làng tôi chống lại nhiều trận càn của giặc. Xung quanh làng tôi, những luỹ tre ken dày đã nên thành, nên luỹ tựa bức tường thép làm thất bại nhiều cuộc tiến công của giặc, có cả xe tăng, xe cơ giới tham chiến. Giặc câu đại bác, nhiều bụi tre bị tung lên xác xơ nhưng giặc không vào được làng. Cuối cùng, chúng phải rút lui mang theo những xác chết và nhiều thằng bị thương. Bên cạnh hàng rào luỹ tre là giao thông hào nối với các xóm. Các cửa hầm bí mật cũng thường được đặt dưới các bụi tre. Những cây tre già, cây măng, bụi gộc còn lại là những vật che chắn những cửa hầm. Có người du kích bị giặc truy đuổi thà chết chứ không tìm về nơi bụi tre có cửa hầm mà đồng đội đang ở đó!
Giờ đây, luỹ tre bao quanh làng hầu như không còn. Từ xa nhìn về không thấy “xanh bóng tre” nữa. Người ta chặt tre để lấy đất làm nhà. Tất cả đều hướng ra bìa làng. Ở đó có gió đồng, không gian thoáng rộng và trông chờ những dự án đầu tư. Mỗi lần về quê, ra nghĩa trang thắp hương, nhìn về làng thấy màu xanh không còn bao nhiêu, nhìn kỹ cũng không thấy màu xanh của tre. Chỉ thấy gần xa loang lổ những màu vôi mới, màu bê tông và mái ngói, mái tôn lô nhô của những ngôi nhà cao hai, ba tầng. Tôi đi lại nhiều lần trên con đường làng. Toàn đường bê tông, bê tông phẳng chạy thẳng từ ngõ vào sân nhà. Đi xe máy, xe đạp cứ thế tiến qua cổng vào đến tận hè. Ngơ ngác tìm mãi không còn một mảnh vườn có chuối, có tre, có cây duối dại và những con bướm, con chuồn của thuở nhỏ.
Ôi! còn đâu nữa những hàng ô dô, dâm bụt. Ngõ nhà ai có dậu cúc tần, trên đó giăng những sợi vàng óng của dây tơ hồng. Còn đâu trò chơi tuổi thơ: cuốn kèn lá, kết hoa,… dưới bóng tre mát rượi buổi trưa hè. Tre đi đâu? Những chuyện về tre còn ai kể nữa? Chỉ còn trong lòng ta nỗi trống vắng khôn nguôi. Rồi đây, khi con cháu ta đọc những áng văn chương viết về cây tre liệu thày giáo của nó phải tả, phải kể như thế nào đây về một loài cây đã gần gũi, thân thuộc gắn bó tự bao đời với người Việt Nam ta? Loài cây đó đã trở thành cổ tích, thành ngày xưa…?
Liệu các nhà bảo tàng có phải nghĩ cách để đưa cây này vào danh mục các loài cây cần được bảo tồn…
Thanh Ứng