Trang chủ » Tin văn và...

HOAN NGHÊNH PHÊ BÌNH KHÁCH QUAN, PHẢN ĐỐI PHÊ BÌNH GIAN LẬN

GS. Trần Đình Sử
Thứ ba ngày 31 tháng 3 năm 2009 10:31 PM
 Tổng chủ biên Ngữ văn (nâng cao)THPT
Tôi là Tổng chủ biên sách Ngữ văn 11 (nâng cao), có trách nhiệm trả lời các góp ý về bộ sách do tôi tổng chủ biên. Tôi đã đọc các bài của ông Văn Hiến phê bình SGK từ tiểu học đến THPT. Qua loạt bài này ông Văn Hiến có một vài đóng góp, nhưng đồng thời cũng thấy ông thể hiện thái độ thiếu thiện chí, thậm chí là thiếu trung thực trong nhiều nhận định của mình. Bài này chỉ xin nêu nhận xét về một bài của ông, đó là bài : Ngữ văn 11 tập 1 (nâng cao): “Nâng cao” những sai lầm. Chỉ riêng bài đó đã cho thấy thái độ và cách phê bình rất đáng phê bình của ông Văn Hiến, “người hùng” trong chiến dịch đả kích SGK có tính chất vùi dập hiện nay.
Nhan đề bài báo của ông Hiến có tính chất lập lờ. Tuy nhan đề là phê bình sách Ngữ văn 11 (nâng cao), nhưng thực tế ông phê bình cả hai bộ sách cơ bản và nâng cao, mà trong đó phê bình sách Ngữ văn 11 (cơ bản) gồm 26 điểm, phê bình Ngữ văn 11 (nâng cao) 16 điểm, tổng số là 42 điểm. Tôi không đồng tình cách gọi các điểm này là “lỗi”hay “nội dung cần chỉnh sửa” như tiêu đề nhiều bài báo viết (không biết do tác giả viết hay người biên tập vietnamnet thêm vào?), bởi vì không phải cái gì ông Hiến nêu lên đều đúng là “lỗi”hay “nội dung cần chỉnh sửa” của SGK. Chỉ riêng tiêu đề “nâng cao những sai lầm”đã chứng tỏ ông Văn Hiến không biết phân biệt nghĩa của mấy từ “lỗi” và “sai lầm” hoặc là ông cố tình nêu như thế để lừa dối công luận về chất lượng SGK.
Dù thái độ ông Văn Hiến như thế nào, trong 16 điểm ông phê bình sách Ngữ văn 11 (nâng cao), tôi vẫn nhận thấy có 02 điểm ông nói đúng. Một chỗ viết nhầm là Giải nguyên (tr. 59), lẽ ra phải là Hội nguyên. Chỗ này là sơ suất khi in ấn, đã nói thi Hương đỗ Giải nguyên rồi thì thi Hội không thể lại Giải nguyên được. Một chỗ nói về Lục Vân Tiên được thần phật cứu (tr. 21), lẽ ra chỉ nói thần và người là đủ. Đấy chỉ là sơ suất nhỏ. Tuy vậy tôi vẫn chân thành cảm ơn và hoan nghênh ông Văn Hiến.
Ngoài mấy điểm ấy, các điểm còn lại của ông nêu ra chưa đủ chứng cứ và chưa có sức thuyết phục. Dĩ nhiên, không thể đòi hỏi người phê bình chỗ nào cũng đúng; câu được câu chăng là chuyện bình thường. Điều không bình thường ở đây là ông Hiến có khuynh hướng bịa đặt, gian lận nhằm phủ định bộ SGK Ngữ văn 11 (nâng cao). Tôi sẽ phân tích dưới đây một số điểm chính.
 1. Ông phê phần Tiểu dẫn “quá dài” và lấy Tiểu dẫn về Tú Xương trong sách Ngữ văn 11 (nâng cao) ở tr. 66, 77 làm dẫn chứng.  Ông miêu tả sách “dành một trang khổ lớn 17 x 24cm in chữ nhỏ” để chứng tỏ là “quá dài”, rồi mỉa mai “nên đổi thành “Đại dẫn”. Căn cứ mà ông chê đoạn Tiểu dẫn này là quá dài là ông so với SGK THCS Văn học 9, tập 1, Tiểu dẫn về Tú Xương chỉ có 194 chữ, mà không thấy yêu cầu hai cấp học cao thấp khác nhau. Ông lại so với SGK Văn học 11, tập một chỉnh lí hợp nhất năm 2000, ở đó phần Tiểu dẫn về Tú Xương gồm có 420 chữ để chứng tỏ Ngữ văn 11(nâng cao) là “quá dài”. Nhưng thật tiếc cho ông, Tiểu dẫn về Tú Xương trong Ngữ văn 11 (nâng cao) cũng chỉ có 422 chữ, chỉ dài hơn có 02 chữ ! Thế mà ông đặt tiêu đề mang tính chất tố cáo, in đậm cho giật gân: “Bài viết quá dài về Tú Xương tồn tại nhiều lỗi”. Rõ ràng sự tố cáo của ông là hoàn toàn bịa đặt. Nhân đây xin thành thật khuyên ông cử Văn Hiến, muốn in đậm câu nào, trước hết hãy xem câu ấy có lủng củng không đã; nếu không, sẽ rơi vào tình cảnh tự vạch áo cho người xem lưng như cái tiêu đề này.
2. Vậy “nhiều lỗi” là những lỗi nào? Thứ nhất, ông cho việc gọi “làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định cũ” là sai, và mỉa mai viết thế “cho xứng với sách nâng cao”. Sự thật là chỉ tỉnh Nam Định cũ mới có làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, còn ngày nay, làng ấy đã thuộc thành phố Nam Định rồi. Cũ mới là so với những biến động về đơn vị hành chính, viết như vậy là không có “lỗi”.
3. Thứ hai, ông bảo đã nói Nguyễn Khuyến đi thi 9 lần, tại sao không nói Tú Xương đi thi 8 lần, như thế là “lỗi”. Thực ra bài về Nguyễn Khuyến là bài giới thiệu tác gia, cần viết cụ thể, còn bài về Tú Xương chỉ là Tiểu dẫn. Nếu cứ như ông đề nghị thì thành “Đại dẫn” mất rồi còn gì ? Viết thêm hay không là tuỳ, ở đây chẳng có “lỗi” nào hết. ấy vậy mà ông Văn Hiến dám khái quát: “Bài viết quá dài về Tú Xương tồn tại nhiều lỗi”.
4. Ông chỉ trích SGK viết “Nguyễn Đình Chiểu sáng tác Truyện Lục Vân Tiên vào khoảng sau 1850...” là sai vì “năm 1860 vẫn là sau năm 1850”. Nhưng đây là câu văn ông cố ý cắt xén. Nguyên văn SGK viết là “Nguyễn Đình Chiểu sáng tác Truyện Lục Vân Tiên vào khoảng sau năm 1850, khi ông mở trường dạy học.” Mấy chữ “khi ông mở trường dạy học” đã hạn định thời gian, không thể là đến năm 1860 như ông suy luận được. Chỗ này rõ ràng ông cố ý gian lận để chứng tỏ ông giỏi hơn tác giả SGK.
5. Ông Văn Hiến cho rằng Tiểu dẫn bài Lẽ ghét thương nói “trên đường đi thi Lục Vân Tiên cứu Nguyệt Nga” là sai, phải nói trên đường về thăm cha mẹ mới đúng. Ông Hiến không thấy rằng mở đầu truyện, Lục Vân Tiên đến chào sư phụ, hỏỉ xem cát hung thế nào rồi lên đường đi thi. Việc ghé nhà thăm cha mẹ cũng chỉ là trên đường đi thi đó thôi. Ông Lê Chí Dũng trong Từ điển văn học (bộ mới) tr. 885 cũng tóm tắt: “Trên đường đi ứng thí, chàng đánh cướp cứu dân, cứu Nguyệt Nga...”. Cho nên viết thế không phải là sai.
6. Ông Văn Hiến hạch: “Trịnh Hâm Bùi Kiệm cũng là nho sĩ?”. Thế rồi ông trích SGK: “Đoạn trích Lẽ ghét thương.... nói về cuộc trò truyện (sic!  ông Hiến chép sai chính tả, lẽ ra viết “chuyện” mới đúng) giữa nhân vật ông Quán và mấy nho sĩ trẻ tuổi. Đó là Vân Tiên cùng bạn là Vương Tử Trực đi thi vào quán trọ thì gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm...” SGK viết: “gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cũng là sĩ tử”, nhưng ông Văn Hiến chỗ này cố tình lược bỏ hai chữ “sĩ tử” đi, thay vào đó dấu lửng“...” để lập lờ như là chúng tôi coi chúng là “nho sĩ” mà không có sự phân biệt nào, để dễ bề quy kết SGK Ngữ văn 11(nâng cao) đã “nâng cao” những sai lầm như nhan đề của bài báo. Xin nói thêm, Vân Tiên và Tử Trực là những người vào kinh ứng thí kì thi Hương để lấy học vị cử nhân, sau đó nếu đỗ có thể tiếp tục thi Hội để lấy học vị tiến sĩ, họ phải xôi kinh nấu sử đêm ngày, gọi họ là “nho sĩ trẻ tuổi”không có gì sai. Ngay cả trường hợp Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, về hình thức, gọi chúng là nho sĩ cũng không sai, bởi “nho sĩ” cũng có nhiều loại. Theo Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (nxb. Trẻ, 1998, tr. 746, nho sĩ và nho sinh đồng nghĩa với nhau, đều chỉ “kẻ học nho, người nhà nho”, hoàn toàn không phải nho sĩ thì “cao hơn” nho sinh như ông Văn Hiến lầm tưởng. Các từ điển Trung Quốc như Từ nguyên (1993, tr.143), Hán ngữ đại từ điển (1997, tập thượng, tr.725) cũng đều hiểu như vậy. (Rất tiếc Từ điển tiếng Việt 2004 mà tôi có, do Hoàng Phê chủ biên không có từ nho sinh). Gọi người học nho để đi thi cử nhân, tiến sĩ thời phong kiến là nho sĩ, tức tầng lớp trí thức, tôi không thấy có gì sai. Riêng trường hợp Trịnh Hâm, Bùi Kiệm để giảm nhẹ phẩm chất của chúng, SGK đã gọi chúng là “sĩ tử”, tức học trò đi thi. Do tưởng lầm “nho sĩ” cao hơn “nho sinh” cho nên ông Hiến mới tri hô lên: Ngữ văn 11 (nâng cao) nâng cao những si lầm.
7. Về đoạn viết “Đoạn trích... nói về cuộc trò chuyện giữa nhân vật ông Quán và mấy nho sĩ trẻ tuổi”, ông phê bình là sai, yêu cầu phải viết lại, vì “chỉ thấy câu trả lời của ông Quán đối với câu hỏi của Vân Tiên”, “cuộc đối thoại với các nhân vật còn lại (tức Trịnh Hâm, Bùi Kiệm – TĐS)  sảy (sic! chỗ này ông Hiến lại sai chính tả, phải viết “xảy” mới đúng) ra ở đoạn khác”. Theo tôi, ông Văn Hiến đã lầm. Câu hỏi của Vân Tiên chỉ là khơi mào để cho ông Quán phát biểu, còn trong suốt cuộc trò chuyện, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm vẫn có mặt lắng nghe, và lời ông Quán hướng về tất cả bốn người. Ông không chỉ nói lẽ ghét thương trong kinh sử, mà còn ngụ ý ghét thương đối với người hiện tại, thương cho Vân Tiên, Tử Trực bị vu khống là “viết tùng cổ thi”, ghét bọn gièm pha người tài như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Cho nên khi thấy Vân Tiên đề cao ông Quán, bọn Trịnh Hâm, Bùi Kiệm rất căm tức, chúng mắng ông Quán một cách xấc láo: “Ông Quán nói nhăng, Dẫu thông kinh sử cũng thằng bán cơm!” Theo lí thuyết hội thoại trong ngữ học, người chỉ lắng nghe, không nói cũng là tham gia trò chuyện. Như vậy, dù SGK chỉ chọn đoạn lời ông Quán, vẫn có thể viết: “Đoạn trích nói về cuộc trò chuyện...” mà không sai gì cả.
8. Ông Văn Hiến cho rằng “đoạn Lẽ ghét thương không tiêu biểu cho tiếng nói nghệ thuật của ông” (Nguyễn Đình Chiểu), “Tôi tin rằng trong khi lao động, nhân dân Nam Bộ không hát những câu có nhiều điển tích như Lẽ ghét thương”. Tôi không biết ông Văn Hiến hiểu thế nào về “tiếng nói nghệ thuật” của Nguyễn Đình Chiểu mà dám nói như vậy. Theo quan điểm của tôi Truyện Lục Vân Tiên thuộc dòng văn học giáo huấn, do đó, đoạn trích này rất tiêu biểu cho tiếng nói nghệ thuật giáo huấn ấy. THCS đã học Truyện Lục Vân Tiên, nhưng chỉ học các đoạn văn dễ hiểu, lên THPT các em được học tư tưởng sâu xa của tác giả. Còn như có nhiều điển tích, phải chú thích nhiều là thường tình, vì đó là đặc điểm của văn chương bác học. Cái tiêu chí lựa chọn thơ đưa vào SGK của ông Hiến mới thật cổ lỗ sĩ, chỉ những câu thơ phải được nhân dân hát lên trong khi lao động thì mới đủ tư cách tuyển vào SGK, còn những câu được hát trong lúc khác chắc sẽ không được tuyển!? Ông Văn Hiến có bằng chứng nào để nói nhân dân Nam Bộ khi lao động không hát những câu ấy? Khi chưa có bằng chứng xác thực thì không ai có quyền nhân danh nhân dân để phát biểu ý kiến cả. Nhân danh như thế cũng là một thứ gian lận.
9. Ông Văn Hiến bảo: “Nên viết Cao Bá Quát “được cử làm huấn đạo ở phủ Quốc Oai, Hà Tây”, thay cho làm “giáo thụ”. Ông cứ đề nghị xơi xơi như thể toàn bộ tri thức khoa học nằm trong đầu ông rồi. Giá ý kiến ngây thơ này là của một cậu học sinh trung học thì hẳn tôi phải nghĩ rằng cậu ấy chỉ biết có truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, và suy luận nhân vật Huấn Cao là “Huấn đạo Cao Bá Quát”, nhưng ông Văn Hiến là một cử nhân, lẽ nào ông cũng suy luận như học sinh trung học? Hay do ông Hiến nhờ các học sinh phát hiện giúp lỗi của SGK, cho nên ông cũng hiểu như các em? Việc phân biệt nhân vật hư cấu và nhân vật lịch sử trường đại học đã dạy cho sinh viên năm thứ nhất.
10. Ông đề nghị không dùng từ “hưu” khi nói về Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, vì không thấy nói tới việc các vị ấy “nhận lương hưu”. Đây là một ngộ nhận buồn cười. Ngày xưa, nghỉ việc quan cũng gọi là về hưu. Đào Tiềm từ quan tức là về hưu. Vì ông cứ tưởng từ “hưu” chỉ dành để nói về việc công chức ngày nay thôi làm ở cơ quan nhà nước khi đến tuổi quy định, và hưu thì tất yếu gắn liền với việc được trả lương hưu, cho nên ông mới gặp khó khăn khi trả lời cho học trò của ông.
11. Ông đề nghị thay “thơ hát nói” trang 77 và 79 bằng “thể thơ hát nói”. Theo tôi, không cần thiết, vì khi nói “thơ hát nói” người ta hiểu ngay là thể thơ hát nói rồi. Trường hợp thứ hai, khi câu hỏi đặt ra là “Chỉ ra những đặc điểm thể loại của thơ hát nói”, thì việc thêm từ “thể” vào đây chỉ làm cho câu văn rườm rà, nặng nề. Chỗ này cho thấy ông cứ đề nghị thay chỗ này, sửa chỗ kia một cách tuỳ tiện, không theo nguyên tắc nào cả.
12. Ông đề nghị từ trang 86 “bỏ việc chia sẵn đoạn của các văn bản bằng cách đánh số thứ tự” mà không nêu một lí do nào. Xin ông Văn Hiến lưu ý cho, phải có lí do chính đáng mới có quyền nêu đề nghị sửa chỗ này chỗ nọ của SGK. Nếu không thế thì hoá ra cái gì mình không thích, không hiểu đều có thể đề nghị sửa cả hay sao?
13. Ông Văn Hiến phán rằng Tiểu dẫn viết “Thạch Lam là thành viên của Tự lực văn đoàn” là chưa đủ, mà phải nói thêm “Ông là một trong 7 ngôi sao sáng của văn đoàn này”. Chỗ này ông Văn Hiến cố tình lờ đi câu văn tiếp sau đó: “ông làm báo viết văn và trở thành cây bút chủ chốt của các báo Phong hoá, Ngày nay”. Câu văn của SGK có nội dung thực chất hơn nhiều so với câu “một trong 7 ngôi sao sáng của văn đoàn”do ông Hiến đề nghị. Câu của ông Hiến tuy diễn đạt hoa mĩ, nhưng sáo rỗng. Chỗ này ông Văn Hiến lại thiếu trung thực. Trong một bài viết ngắn mà có tới bốn chỗ thiếu trung thực thì hơi bị nhiều.
14. Ông đề nghị có xuất xứ của các ảnh, thay ảnh này bằng ảnh khác. Ông không hề viết SGK, không biết rằng thực tế tìm ảnh đã khó mà tìm xuất xứ của chúng lại càng khó hơn. Theo tôi trong điều kiện hiện nay, SGK không nhất thiết phải ghi xuất xứ, và đây không phải là lỗi.
Như vậy là trong 16 điểm ông phê bình SGK Ngữ văn 11 (nâng cao), tập một, chúng tôi tiếp thu 2 điểm, còn 14 điểm, chỗ thì vu vơ, chỗ thì do ông không hiểu, chỗ thì ông sai vì thiếu kiến thức, nhưng có tới bốn chỗ ông tỏ ra thiếu trung thực, gian lận, chúng tôi không thể chấp nhận. Khi một người đã dùng đến biện pháp thiếu trung thực thì chắc chắn người đó đã tự thấy mình không có lẽ phải. Nhưng vì hiếu thắng nên phải chế tác ra “lẽ phải”.Với những “lỗi” do ông “chế tác”, rồi đổ cho SGK, ông Văn Hiến không có quyền nói sách “Ngữ văn 11 (nâng cao) nâng cao những sai lầm”. Nói như vậy là vu khống, lừa dối dư luận. Cũng xin nói thêm, trong một bài viết chỉ có mấy trang, mà ông Văn Hiến mắc cả mớ lỗi -  lỗi chính tả, lỗi ngữ pháp, lỗi kiến thức, chẳng thiếu thứ gì; vì vậy tôi nghĩ, khi phê bình SGK ông chớ nên cao giọng.
Góp được vài ba ý đúng là rất đáng trân trọng, song từ chỗ đó mà tự thấy mình tài giỏi, cái gì cũng biết, để có thể nói giọng trịch thượng thì lại có vấn đề về nhân cách. Riêng việc dùng hành vi gian lận trong phê bình thì phải bị nghiêm khắc lên án chứ không thể biểu dương một cách nông nổi.
 Đọc bài phê bình SGK của ông Văn Hiến, chúng tôi hoan nghênh chỗ phê bình khách quan, phản đối những chỗ phê bình gian lận và quy kết ác ý,  tuỳ tiện.
                                                                   Hà Nội, 28-3-2009